Năm 2013, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản cần phải tập trung giảm tối đa các ca tử vong mẹ, tử vong sơ sinh.
Đây là nhiệm vụ trọng tâm mà lãnh đạo ngành y tế đưa ra tại hội nghị tổng kết công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2012 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2013 do Bộ Y tế tổ chức ngày 27/12 tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Viết Tiến - Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết trong năm 2013, ngoài việc tập trung xây dựng hoàn thiện các đề án, các văn bản quy phạm pháp luật, các hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật, nhiệm vụ trọng tâm của ngành y tế là tích cực triển khai các biện pháp đồng bộ nhằm hạn chế tổn thương sức khỏe, giảm tử vong mẹ, tử vong sơ sinh góp phần thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ và các mục tiêu của chất lượng dân số-sức khỏe sinh sản.
Trước mắt, theo Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến toàn ngành y tế tiếp tục củng cố, kiện toàn hệ thống chăm sóc sức khỏe sinh sản từ Trung ương đến cơ sở, từng bước phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản, đặc biệt chú trọng đến những vùng khó khăn.
Các cơ sở y tế tăng cường và từng bước nâng cao chất lượng nhân lực sản khoa, nhi khoa thông qua đẩy mạnh việc đào tạo bác sỹ chuyên khoa phụ sản, chuyên khoa nhi, đặc biệt, chú trọng hình thức chuyên khoa định hướng; đi đôi với tăng cường thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ quy trình khám chữa bệnh, hướng dẫn chuyên môn, kỹ thuật, kể cả các cơ sở tư nhân, y tế ngành.
Theo báo cáo công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2012 được báo cáo tại hội nghị, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản trong cả nước năm nay đã được nhiều thành tựu quan trọng. Mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản được củng cố và phát triển, với nhiều chỉ số cơ bản về sức khỏe sinh sản tiến bộ hơn các năm trước.
Trong đó, nhiệm vụ quản lý điều hành của ngành y tế ngày càng đi vào chiều sâu và toàn diện; nhiều văn bản quản lý, các hướng dẫn chuyên môn thuộc lĩnh vực sức khỏe sinh sản được cập nhật bổ sung sửa đổi và xây dựng mới để đáp ứng với yêu cầu thực tiễn. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em như tỷ lệ phụ nữ có thai được quản lý thai, số lần khám thai trung bình, tỷ lệ phụ nữ đẻ có cán bộ được đào tạo hỗ trợ, tỷ lệ bà mẹ được khám sau đẻ tại nhà đều đạt chỉ tiêu và cao hơn năm trước. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân năm 2012 ước còn 16,3%, giảm 0,5% so với năm 2011, vượt chỉ tiêu Quốc hội giao.
Tuy vậy, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản cũng còn nhiều bất cập và bộc lộ nhiều yếu kém cần sớm được khắc phục, đó là tỷ lệ tử vong mẹ, tử vong trẻ em, suy dinh dưỡng trẻ em tuy đã giảm nhưng còn có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng, miền; giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi. Tai biến sản khoa và tử vong mẹ diễn biến phức tạp, có xu hướng tăng so với năm 2011. Việc sàng lọc và phát hiện sớm các nhiễm khuẩn đường sinh sản, các bệnh lây qua đường tình dục kể cả HIV, ung thư đường sinh sản chưa được triển khai rộng rãi.
Các vấn đề sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục ở nhóm đối tượng đặc thù là vị thành niên và thanh niên, người di cư, công nhân ở các khu công nghiệp, người cao tuổi, nam giới... chưa được quan tâm đúng mức và cũng chưa đủ nguồn lực để triển khai thực hiện. Hệ thống cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản còn nhiều hạn chế, bất cập. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ còn thiếu về số lượng, trình độ chuyên môn còn hạn chế nhất là ở tuyến huyện và xã./.
Đây là nhiệm vụ trọng tâm mà lãnh đạo ngành y tế đưa ra tại hội nghị tổng kết công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2012 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2013 do Bộ Y tế tổ chức ngày 27/12 tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Viết Tiến - Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết trong năm 2013, ngoài việc tập trung xây dựng hoàn thiện các đề án, các văn bản quy phạm pháp luật, các hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật, nhiệm vụ trọng tâm của ngành y tế là tích cực triển khai các biện pháp đồng bộ nhằm hạn chế tổn thương sức khỏe, giảm tử vong mẹ, tử vong sơ sinh góp phần thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ và các mục tiêu của chất lượng dân số-sức khỏe sinh sản.
Trước mắt, theo Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến toàn ngành y tế tiếp tục củng cố, kiện toàn hệ thống chăm sóc sức khỏe sinh sản từ Trung ương đến cơ sở, từng bước phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản, đặc biệt chú trọng đến những vùng khó khăn.
Các cơ sở y tế tăng cường và từng bước nâng cao chất lượng nhân lực sản khoa, nhi khoa thông qua đẩy mạnh việc đào tạo bác sỹ chuyên khoa phụ sản, chuyên khoa nhi, đặc biệt, chú trọng hình thức chuyên khoa định hướng; đi đôi với tăng cường thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ quy trình khám chữa bệnh, hướng dẫn chuyên môn, kỹ thuật, kể cả các cơ sở tư nhân, y tế ngành.
Theo báo cáo công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2012 được báo cáo tại hội nghị, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản trong cả nước năm nay đã được nhiều thành tựu quan trọng. Mạng lưới chăm sóc sức khỏe sinh sản được củng cố và phát triển, với nhiều chỉ số cơ bản về sức khỏe sinh sản tiến bộ hơn các năm trước.
Trong đó, nhiệm vụ quản lý điều hành của ngành y tế ngày càng đi vào chiều sâu và toàn diện; nhiều văn bản quản lý, các hướng dẫn chuyên môn thuộc lĩnh vực sức khỏe sinh sản được cập nhật bổ sung sửa đổi và xây dựng mới để đáp ứng với yêu cầu thực tiễn. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em như tỷ lệ phụ nữ có thai được quản lý thai, số lần khám thai trung bình, tỷ lệ phụ nữ đẻ có cán bộ được đào tạo hỗ trợ, tỷ lệ bà mẹ được khám sau đẻ tại nhà đều đạt chỉ tiêu và cao hơn năm trước. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân năm 2012 ước còn 16,3%, giảm 0,5% so với năm 2011, vượt chỉ tiêu Quốc hội giao.
Tuy vậy, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản cũng còn nhiều bất cập và bộc lộ nhiều yếu kém cần sớm được khắc phục, đó là tỷ lệ tử vong mẹ, tử vong trẻ em, suy dinh dưỡng trẻ em tuy đã giảm nhưng còn có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng, miền; giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi. Tai biến sản khoa và tử vong mẹ diễn biến phức tạp, có xu hướng tăng so với năm 2011. Việc sàng lọc và phát hiện sớm các nhiễm khuẩn đường sinh sản, các bệnh lây qua đường tình dục kể cả HIV, ung thư đường sinh sản chưa được triển khai rộng rãi.
Các vấn đề sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục ở nhóm đối tượng đặc thù là vị thành niên và thanh niên, người di cư, công nhân ở các khu công nghiệp, người cao tuổi, nam giới... chưa được quan tâm đúng mức và cũng chưa đủ nguồn lực để triển khai thực hiện. Hệ thống cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản còn nhiều hạn chế, bất cập. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ còn thiếu về số lượng, trình độ chuyên môn còn hạn chế nhất là ở tuyến huyện và xã./.
Quốc Việt (TTXVN)