Sáng 15/3, tại Hà Nội, Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị góp ý Dự thảo báo cáo kết quả của Bộ Tư pháp về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Phát biểu khai mạc, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường nhấn mạnh thực hiện quyết định của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực triển khai các hoạt động lấy ý kiến toàn thể cán bộ, viên chức đảm bảo đúng tiến độ, chất lượng, thực hiện đúng các kế hoạch và yêu cầu đề ra.
Bộ trưởng đề nghị các đại biểu phát huy trí tuệ và trách nhiệm tích cực thảo luận, có những đề xuất cụ thể liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Chính phủ, chính quyền địa phương, Bộ Tư pháp và các vấn đề có liên quan nhằm sớm hoàn thiện báo cáo kết quả trình Chính phủ, Quốc hội thời gian tới.
Ý kiến chung của Bộ Tư pháp, ngành tư pháp nhất trí với Dự thảo báo cáo kết quả của Bộ cho rằng nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hóa các quan điểm của Đảng trong Cương lĩnh và các văn kiện của Đại hội XI của Đảng về định hướng phát triển đất nước, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo Hiến pháp đã có nhiều đổi mới trong việc phân công thực hiện quyền lực, xác lập cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Dự thảo Hiến pháp đã đặt nền móng pháp lý cho việc giải quyết những vấn đề bất cập, tồn tại của thực tiễn được đúc kết trong quá trình tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã bảo đảm là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có tính dự báo và ổn định lâu dài với sự điều chỉnh hợp lý những giá trị phản ánh đặc thù chính trị-pháp lý được ghi nhận tại các bản Hiến pháp của Việt Nam.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cũng cho rằng một số quan điểm, định hướng lớn của Đảng, Nhà nước thể hiện trong Cương lĩnh, Nghị quyết của Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết Trung ương 2 và 5 (khóa XI) và Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chưa được thể chế hóa triệt để, nhất là về kiểm soát quyền lực, về phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, tư pháp. Nội dung về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, chính quyền địa phương còn một số vấn đề cụ thể chưa được giải quyết thấu đáo...
Góp ý vào Chương VIII, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, đa số các ý kiến đều nhất trí với dự thảo báo cáo của Bộ, cho rằng việc xác định tính chất của Viện kiểm sát không rõ ràng.
Theo tinh thần của Dự thảo, Viện kiểm sát được xếp cùng chương với Tòa án nhân dân, như vậy được hiểu là Viện kiểm sát cũng là cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, theo các văn kiện của Đảng và thực tiễn, các cơ quan tư pháp thường được hiểu rộng hơn, bao gồm cả Cơ quan điều tra và Cơ quan thi hành án. Do vậy, nội dung này cần được nghiên cứu, thể hiện lại cho phù hợp.
Góp ý vào Chương VI Chủ tịch nước, các ý kiến tán thành tên chương và các nội dung của chương này. Các ý kiến nhất trí Dự thảo tiếp tục giữ các quy định của Hiến pháp năm 1992 về vị trí, vai trò của Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về đối nội, đối ngoại. Quy định như vậy là phù hợp với bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, Dự thảo cần sắp xếp, bổ sung để làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện các quyền và trách nhiệm của Chủ tịch nước.
Dự thảo báo cáo kết quả lấy ý kiến của Bộ Tư pháp về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 tổng hợp 152 ý kiến của cá nhân, tổ chức góp ý về Chương VII Chính phủ.
Thảo luận tại hội nghị, đa số các ý kiến đều nhất trí với tên Chương, nội dung Chương VII đã quy định đảm bảo hợp lý vị trí của Chính phủ trong tổ chức quyền lực tương ứng với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp, tán thành với các quy định tại Dự thảo.
Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền lập pháp trong việc ban hành văn bản Luật, chẳng hạn Chính phủ có quyền đề nghị Quốc hội chưa thông qua dự án Luật hoặc quyền rút lại dự án Luật do Chính phủ trình trong những trường hợp do luật định; đề xuất với Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội xem xét lại đạo luật đã được thông qua. Vì theo nguyên tắc quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước, Chính phủ (quyền hành pháp) có quyền kiểm soát Quốc hội (quyền lập pháp).
Liên quan đến chính quyền địa phương, các ý kiến đều cho rằng các quy định về chính quyền địa phương trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có một số điểm mới và có những ưu điểm nhất định khi quy định rõ việc thành lập Hội đồng Nhân dân ở các đơn vị hành chính được thực hiện theo quy định của Luật, có tính tới sự khác biệt giữa nông thôn và đô thị và vấn đề phân cấp. Đồng thời, Ủy ban Nhân dân không nhất thiết phải do Hội đồng Nhân dân bầu.
Tuy nhiên, so với yêu cầu khắc phục những tồn tại, bất cập của các quy định trong Hiến pháp hiện hành về chính quyền địa phương mà Báo cáo số 32 của Chính phủ đã nêu trong quá trình tổng kết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, còn nhiều điểm chưa đáp ứng. Các quy định trong Dự thảo cũng chưa đáp ứng đầy đủ việc thể chế hóa một số chủ trương mà Đảng đã nêu.
Góp ý về kỹ thuật lập hiến, các ý kiến góp ý nhất trí cao với Dự thảo báo cáo của Bộ Tư pháp, theo đó Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có nhiều nội dung mới mang tính dự báo trong những năm tiếp theo, nhiều quy định đã được đưa ra khỏi Hiến pháp và được điều chỉnh cụ thể trong Luật.
Dự thảo thể hiện sự đầu tư có trách nhiệm của người làm công tác lập pháp có sự góp ý của nhiều chuyên gia. Nội dung đã có những quy định mới toàn diện và tổng thể hơn so với những bản Hiến pháp trước. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện một bước tiến mới về kỹ thuật lập hiến so với Hiến pháp năm 1992./.
Phát biểu khai mạc, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường nhấn mạnh thực hiện quyết định của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực triển khai các hoạt động lấy ý kiến toàn thể cán bộ, viên chức đảm bảo đúng tiến độ, chất lượng, thực hiện đúng các kế hoạch và yêu cầu đề ra.
Bộ trưởng đề nghị các đại biểu phát huy trí tuệ và trách nhiệm tích cực thảo luận, có những đề xuất cụ thể liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Chính phủ, chính quyền địa phương, Bộ Tư pháp và các vấn đề có liên quan nhằm sớm hoàn thiện báo cáo kết quả trình Chính phủ, Quốc hội thời gian tới.
Ý kiến chung của Bộ Tư pháp, ngành tư pháp nhất trí với Dự thảo báo cáo kết quả của Bộ cho rằng nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hóa các quan điểm của Đảng trong Cương lĩnh và các văn kiện của Đại hội XI của Đảng về định hướng phát triển đất nước, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo Hiến pháp đã có nhiều đổi mới trong việc phân công thực hiện quyền lực, xác lập cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Dự thảo Hiến pháp đã đặt nền móng pháp lý cho việc giải quyết những vấn đề bất cập, tồn tại của thực tiễn được đúc kết trong quá trình tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã bảo đảm là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có tính dự báo và ổn định lâu dài với sự điều chỉnh hợp lý những giá trị phản ánh đặc thù chính trị-pháp lý được ghi nhận tại các bản Hiến pháp của Việt Nam.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cũng cho rằng một số quan điểm, định hướng lớn của Đảng, Nhà nước thể hiện trong Cương lĩnh, Nghị quyết của Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết Trung ương 2 và 5 (khóa XI) và Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chưa được thể chế hóa triệt để, nhất là về kiểm soát quyền lực, về phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, tư pháp. Nội dung về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, chính quyền địa phương còn một số vấn đề cụ thể chưa được giải quyết thấu đáo...
Góp ý vào Chương VIII, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, đa số các ý kiến đều nhất trí với dự thảo báo cáo của Bộ, cho rằng việc xác định tính chất của Viện kiểm sát không rõ ràng.
Theo tinh thần của Dự thảo, Viện kiểm sát được xếp cùng chương với Tòa án nhân dân, như vậy được hiểu là Viện kiểm sát cũng là cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, theo các văn kiện của Đảng và thực tiễn, các cơ quan tư pháp thường được hiểu rộng hơn, bao gồm cả Cơ quan điều tra và Cơ quan thi hành án. Do vậy, nội dung này cần được nghiên cứu, thể hiện lại cho phù hợp.
Góp ý vào Chương VI Chủ tịch nước, các ý kiến tán thành tên chương và các nội dung của chương này. Các ý kiến nhất trí Dự thảo tiếp tục giữ các quy định của Hiến pháp năm 1992 về vị trí, vai trò của Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về đối nội, đối ngoại. Quy định như vậy là phù hợp với bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, Dự thảo cần sắp xếp, bổ sung để làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện các quyền và trách nhiệm của Chủ tịch nước.
Dự thảo báo cáo kết quả lấy ý kiến của Bộ Tư pháp về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 tổng hợp 152 ý kiến của cá nhân, tổ chức góp ý về Chương VII Chính phủ.
Thảo luận tại hội nghị, đa số các ý kiến đều nhất trí với tên Chương, nội dung Chương VII đã quy định đảm bảo hợp lý vị trí của Chính phủ trong tổ chức quyền lực tương ứng với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp, tán thành với các quy định tại Dự thảo.
Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền lập pháp trong việc ban hành văn bản Luật, chẳng hạn Chính phủ có quyền đề nghị Quốc hội chưa thông qua dự án Luật hoặc quyền rút lại dự án Luật do Chính phủ trình trong những trường hợp do luật định; đề xuất với Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội xem xét lại đạo luật đã được thông qua. Vì theo nguyên tắc quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước, Chính phủ (quyền hành pháp) có quyền kiểm soát Quốc hội (quyền lập pháp).
Liên quan đến chính quyền địa phương, các ý kiến đều cho rằng các quy định về chính quyền địa phương trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có một số điểm mới và có những ưu điểm nhất định khi quy định rõ việc thành lập Hội đồng Nhân dân ở các đơn vị hành chính được thực hiện theo quy định của Luật, có tính tới sự khác biệt giữa nông thôn và đô thị và vấn đề phân cấp. Đồng thời, Ủy ban Nhân dân không nhất thiết phải do Hội đồng Nhân dân bầu.
Tuy nhiên, so với yêu cầu khắc phục những tồn tại, bất cập của các quy định trong Hiến pháp hiện hành về chính quyền địa phương mà Báo cáo số 32 của Chính phủ đã nêu trong quá trình tổng kết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, còn nhiều điểm chưa đáp ứng. Các quy định trong Dự thảo cũng chưa đáp ứng đầy đủ việc thể chế hóa một số chủ trương mà Đảng đã nêu.
Góp ý về kỹ thuật lập hiến, các ý kiến góp ý nhất trí cao với Dự thảo báo cáo của Bộ Tư pháp, theo đó Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có nhiều nội dung mới mang tính dự báo trong những năm tiếp theo, nhiều quy định đã được đưa ra khỏi Hiến pháp và được điều chỉnh cụ thể trong Luật.
Dự thảo thể hiện sự đầu tư có trách nhiệm của người làm công tác lập pháp có sự góp ý của nhiều chuyên gia. Nội dung đã có những quy định mới toàn diện và tổng thể hơn so với những bản Hiến pháp trước. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện một bước tiến mới về kỹ thuật lập hiến so với Hiến pháp năm 1992./.
KT (TTXVN)