Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Thông tấn xã Giải phóng, xin trân trọng giới thiệu bài viết ''Du kích Thông tấn xã Giải phóng diệt xe tăng của đế quốc Mỹ'' của ông Vũ Tiến Cường, nguyên phóng viên Thông tấn xã Giải phóng:
Lúc bình thường, họ là phóng viên, biên tập viên, điện báo viên, nhân viên văn thư, hậu cần, cấp dưỡng của cơ quan Thông tấn xã giải phóng.
Thế nhưng, khi có giặc họ trở thành những chiến binh kiên cường thi gan đọ súng với quân thù. Dũng khí ấy tỏ rõ trong khi tham gia bẻ gãy trận càn lớn nhất của giặc Mỹ có tên Junction City hồi Đông Xuân 1966-1967, ngay trong hậu cứ thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam.
Sau khi nghe anh Trần Ấm, phóng viên chiến trường từ Bộ chỉ huy tiền phương quân giải phóng, cắt đường rừng tức tốc trở về cơ quan báo cáo: giặc Mỹ đang mở trận càn lớn vào vùng hậu cứ của ta.
Giám đốc Cơ quan Thông tấn xã giải phóng Võ Nhân Lý (Vũ Linh) hạ lệnh dời cứ. Rời khu vực “Cây Dầu Dơi” vượt trảng “Cố Vấn,” cơ quan đến bám trụ ven “Trảng Tranh” cạnh “Phum Cháy.”
Đây là địa điểm thứ năm mà cơ quan dời đến thiết lập căn cứ qua bao tháng ngày chinh chiến. Đến nơi, các bộ phận điện đài, phóng viên - biên tập tin ảnh, văn thư... khẩn trương dựng xây lán trại mới, thiết kế hầm hào, công sự vừa sẵn sàng đánh địch vừa chuẩn bị đón xuân Đinh Mùi (1967).
Các thanh niên nam, nữ trẻ khỏe, hăng hái nhiệt tình từ các bộ phận nghiệp vụ được tập hợp thành đội du kích cơ quan, gồm các anh: Đức, Nhân, Thái, Cước, Đặng, Quận, Ân... các nữ nhà báo, nhân viên văn thư như Trần Thị Tố Nga, Đồng Kim Sương, Ngọc Hoa, Thanh Mai, Út Năng...
Thủ trưởng cơ quan vừa chỉ đạo tác nghiệp vừa trực tiếp cầm quân chỉ huy chiến đấu. Bom rơi, đạn nổ khói lửa ngút trời trong những ngày Tết Nguyên đán. Máy bay giặc gầm rú trên trời, dưới đất, xe tăng Mỹ ào ạt rồ máy đinh tai nhức óc, sục vào các cánh rừng.
[Ba năm công tác ở Thông tấn xã Giải phóng - Những kỷ niệm vui buồn]
Bộ phận tác nghiệp nhận lệnh lập tức hành quân đến nơi an toàn, đảm bảo thu phát tin. Đội du kích triển khai bám công sự sẵn sàng chiến đấu. Đúng như dự đoán, trưa ngày 7/3/1967, xe tăng Mỹ dẫn xác đến ngay trận địa bố trí sẵn của đội du kích cơ quan.
Xích xe tăng cách công sự của quân ta hơn chục mét. Nòng pháo đen ngòm có loa che lửa hình chữ T của chiếc xe tăng xích M.48 dẫn đầu cán nát rừng chồi lù lù xuất hiện.
Chốc chốc, con bọ hung thép hạ nòng đại bác nã mấy phát đạn dọn đường đốn đổ những cây to, lấy đà bò tới.
Theo sau nó là cả một đoàn xe tăng, xe bọc thép M.113 với hơn 80 chiếc cách nhau 50m/chiếc. Những tên lính viễn chinh Mỹ gục gặc trên xe, mặt mày đỏ lừ như gà chọi, mặt láo lia, miệng nhai kẹo cao su ngỏm ngoẻm dưới cái nắng chói chang của núi rừng Tây Ninh.
Thủ trưởng giao nhiệm vụ cho đội du kích: bám sát trận địa - nắm chắc tình hình địch, góp phần chia lửa chiến trường tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực tiêu diệt, chỉ nổ súng khi chắc thắng. Toàn đội nghiêm chỉnh chấp hành.
Khi ta với địch còn một khoảng cách rất gần, các chiến sỹ toàn đội không để sót lọt bất cứ hành tung nào của giặc. Mọi sự vẫn còn trong bí mật. Đoàn xe tăng, xe bọc thép ầm ầm chạy qua kéo theo một vệt dài cát bụi tung lên mịt mù.
Đến chiều, tiếng động cơ máy bay, xe tăng xa dần mất hút trong không gian. Rừng đêm như bức màn đen khổng lồ trùm phủ bọn lính Mỹ co cụm ở các trảng trống. Đội du kích trở về báo cáo tình hình địch, chỉnh đốn đội ngũ, chuẩn bị kế hoạch chiến đấu ngày hôm sau.
... Đội du kích được trang bị phần lớn là súng trường của các nước Đức, Anh, Pháp, Mỹ, Nga. Toàn đội vỏn vẹn có một khẩu tiểu liên AK47 của Liên Xô, một súng trường Nga phóng lựu đạn chống tăng, một súng trường Mát của Pháp phóng trom-long. Chỉ có thế thôi so với hỏa lực của Mỹ, rõ là một trời một vực. Thế nhưng các chiến binh du kích cơ quan Thông tấn xã giải phóng lại được trang bị những lá gan hơn cả sắt thép mà Mỹ ngụy không có.
Sáng hôm sau, đội du kích tiếp tục bám công sự lúc sương đêm còn đọng trên lá rừng, vẫn theo dõi nắm tình hình địch. Khoảng 8 giờ sáng ngày 8/3/1967, đoàn xe tăng, xe bọc thép của Mỹ lại tiếp tục đi ngay trên đường cũ mà chúng đã cắt rừng xuyên ngang từ chiều qua.
Bỗng dưng một chiếc tăng giữa đoàn dừng lại, lính Mỹ trên xe nhảy xuống chỉ trỏ..., cả đoàn xe phải dừng lại. Chiếc xe dừng ngay trước công sự, chiến sỹ Trần Ngọc Đặng, kỹ thuật viên ảnh báo chí tân văn xạ thủ súng phóng lựu chống tăng. Không còn bí mật nữa, tức khắc Đặng nã phát đạn chống tăng thẳng vào đầu kẻ thù.
Chiếc xe tăng bốc cháy, các cỡ súng của toàn đội cấp tập nhả đạn về phía đối phương. Địch phản ứng điên cuồng. Đạn bay đỏ đất. Anh Đặng bị thương gãy cánh tay trái, vẫn bình tĩnh dùng răng khui nắp hộp, lấy đạn chống tăng lắp vào súng chiến đấu đến lúc hy sinh. Anh Minh, điện báo viên bị gãy chân vẫn tiếp tục chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, bị địch bắt làm tù binh và được trao trả sau Hiệp định Paris 1973.
Các chiến binh Thông tấn xã giải phóng đã góp phần cùng với du kích các cơ quan Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam sát cánh với du kích, bộ đội địa phương tỉnh Tây Ninh và chủ lực quân giải phóng miền Đông Nam bộ anh dũng bẻ gãy trận càn lớn nhất của 45.000 quân viễn chinh xâm lược Mỹ có tên là Junction City.
Đặc biệt bảo vệ được cơ quan Thông tấn xã giải phóng và buộc đoàn xe tăng 80 chiếc của Mỹ phải chạy thẳng về trảng Tà Xia và ngã ba Thiện Ngôn.
Vinh quang thay, đội du kích Thông tấn xã giải phóng đã góp phần máu xương tô thắm 16 chữ vàng: “Cần cù dũng cảm-Tự lực cánh sinh-Khắc phục khó khăn-Hoàn thành nhiệm vụ” do Trung ương Cục miền Nam khen tặng./.