Đi tìm yếu tố quan trọng nhất giúp doanh nghiệp ứng phó khủng hoảng

Khảo sát của Aus4Reform chỉ ra rằng phần đông các doanh nghiệp đều có chung quan điểm coi nhân sự là tài sản quý giá nhất và là yếu tố hàng đầu trong việc duy trì và phát triển doanh nghiệp.
Đa phần các doanh nghiệp đã phải chuyển đổi mô hình kinh doanh, phương thức kinh doanh, từ mô hình truyền thống sang mô hình kinh doanh phi truyền thống. (Ảnh minh họa. Nguồn: TTXVN)

Đại dịch COVID-19 hoành hành đã gây ra cuộc khủng hoảng trên quy mô toàn cầu với những tác động về tất cả các mặt của đời sống xã hội và sản xuất. Lần đầu tiên, việc đóng cửa biên giới giữa các quốc được coi là giải pháp đương nhiên và cần thiết. Theo đó, “khủng hoảng chuỗi cung ứng” trở thành chủ đề nổi cộm trong hoạt động sản xuất - kinh doanh.

Tại Việt Nam, đại dịch đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực chuyển đổi để thích ứng với hoàn cảnh, duy trì tồn tại và chờ đợi cơ hội phục hồi.

Năng lực ứng phó hạn chế

Ngày 9/11, với sự hỗ trợ của Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform), Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức hội thảo công bố báo cáo “Nghiên cứu, đánh giá khả năng ứng phó của doanh nghiệp Việt Nam với khủng hoảng COVID-19, đề xuất các giải pháp nâng cao khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước khủng hoảng.”

[Trao Giải thưởng Sao Đỏ - Doanh nhân trẻ Việt Nam tiêu biểu năm 2022]

Ông Lê Anh Văn, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ pháp luật và Phát triển nguồn nhân lực- Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cho biết báo cáo thực hiện điều tra từ 630 doanh nghiệp, kết quả cho thấy yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp ứng phó với khủng hoảng là năng lực quản trị doanh nghiệp (chiếm 32,9%); Thị trường khách hàng (chiếm 20,5%); Quy mô vốn của doanh nghiệp (chiếm 20%); Ngành nghề kinh doanh (chiếm 18%); Khả năng huy động vốn (17,6%); Thời gian hoạt động (14,9%) và Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số (chiếm 14,4%).

Hội thảo công bố báo cáo “Nghiên cứu, đánh giá khả năng ứng phó của doanh nghiệp Việt Nam với khủng hoảng COVID-19, đề xuất các giải pháp nâng cao khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước khủng hoảng.” (Ảnh: Vietnam+)

Tại hội thảo, bà Nguyễn Thị Việt Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho biết khi đối diện với các cuộc khủng hoảng, các doanh nghiệp trong nước hầu như không có sự chuẩn bị kịp thời và một kế hoạch phù hợp để ứng phó.

Theo bà Việt Anh, các doanh nghiệp nội địa (đa phần là doanh nghiệp nhỏ và vừa) có quy mô nhỏ và thời gian hoạt động ngắn, vì vậy thường hạn chế về nguồn lực và kinh nghiệm trong ứng phó với những biến động bất ngờ của nền kinh tế, nhất là trong các cuộc khủng hoảng có tác động trên quy mô rộng và thời gian dài như đại dịch COVID-19.

Để tồn tại, đa phần các doanh nghiệp đã phải chuyển đổi mô hình kinh doanh, phương thức kinh doanh, từ mô hình truyền thống sang mô hình kinh doanh phi truyền thống. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trở thành một yếu tố sống còn, để doanh nghiệp có thể duy trì hoạt động và phát triển.

Theo ông Văn, các thông tin từ khảo sát và phỏng vấn sâu chỉ ra phần đông các doanh nghiệp đều có chung quan điểm coi nhân sự là tài sản quý giá nhất và là yếu tố hàng đầu trong việc duy trì và phát triển doanh nghiệp.

Mặt khác, quản trị nguồn lực tài chính và cân đối dòng tiền là yếu tố cần thiết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại, đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng. Bởi, đây được coi là dòng máu, nguồn sinh lực nuôi sống doanh nghiệp.

Bà Việt Anh nhấn mạnh nhằm hạn chế phần nào những tổn thất có thể xảy ra, doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa (khi vốn kinh doanh, vốn lưu động bị hao hụt) để có thể có ngay nguồn bù đắp, đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh diễn ra liên tục.

Song trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là nhỏ và vừa có đặc điểm là tính linh hoạt cao nhưng sức chống chịu kém. Khi gặp khủng hoảng, các doanh nghiệp hầu như chưa có chiến lược ứng phó và quản trị rủi ro.

Báo cáo cũng chỉ ra các doanh nghiệp thành công vượt qua khủng hoảng COVID-19 có một số tiêu chí chung, như áp dụng công nghệ thông tin, chuyển đối số trong sản xuất - kinh doanh, năng suất lao động tăng… nhờ đó doanh nghiệp không bị ngừng hoạt động, lợi nhuận tăng, tìm kiếm được khách hàng mới.

“Một điểm đáng lưu ý, tại các doanh nghiệp do nữ làm chủ thể hiện sự linh hoạt hơn trong thời kỳ khủng hoảng, chủ động hơn trong việc lập kế hoạch dự phòng và áp dụng các chiến lược kinh doanh thận trọng, từ đó tăng khả năng phục hồi của họ trong thời kỳ khủng hoảng,’ ông Văn chia sẻ.

Thay thế phương thức kinh doanh truyền thống

Trên cơ sở nghiên cứu và các quan điểm tiếp cận giải pháp, nhóm nghiên cứu báo cáo đưa ra kiến nghị các giải pháp trong nhằm giúp doanh nghiệp thích ứng linh hoạt và phục hồi hiệu quả trong thời gian tới.

Cụ thể, các doanh nghiệp cần cân đối dòng tiền, cắt giảm các khoản chi tiêu chưa cần thiết, đảm bảo hiệu quả hoạt động và dòng tiền của doanh nghiệp. Thêm vào đó, ban lãnh đạo phải có hướng giải quyết ngay những vấn đề phát sinh đột xuất, bất thường có nguy cơ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất - kinh doanh.

Điểm quan lớn nhất, doanh nghiệp cần coi nhân sự là tài sản quan trọng nhất, do đó thường xuyên phải đối thoại với người lao động (nhất là khi khủng hoảng xảy ra) nhằm đưa ra phương hướng hoạt động, sản xuất thích ứng trong bối cảnh khủng hoảng, cũng như thực hiện các giải pháp hiệu quả hỗ trợ người lao động,

Mặt khác, ông Văn nhấn mạnh các doanh nghiệp nên chú trọng nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, nắm bắt xu hướng tiêu dùng của khách hàng để chuyển hướng kịp thời. Hơn nữa, các hình thức, phương thức kinh doanh, các sự kiện bán hàng theo kiểu truyền thống… cần được thay thế bằng các giải pháp công nghệ mới để khách hàng dễ dàng tiếp cận thông tin, kinh doanh trên các sàn giao dịch điện tử.

“Ngoài ra, các doanh nghiệp cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn đồng thời chủ động tìm hiểu, nắm bắt thông tin thị trường, tình hình kinh tế, chính trị trong nước và trên thế giới, đa dạng hóa nguồn nguyên liệu đầu vào cũng như tăng cường liên kết thông qua các chuỗi cung ứng và mạng lưới các hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng và địa phương,” ông Văn nói.

Từ kết quả ghi nhận tại báo cáo, bà Việt Anh cũng yêu cầu các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng cần xây dựng các diễn đàn chia sẻ những bài học về lựa chọn thị trường, đối tác, quan hệ kinh doanh, về đầu tư xây dựng “nội lực” cốt lõi của doanh nghiệp để tăng khả năng chống chịu với các cú sốc.

Về phía Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương, bà Việt Anh kiến nghị các cấp quản lý cần rà soát, bổ sung, gia hạn các gói chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển đồng thời tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, cải cách thực chất thủ tục hành chính.

“Các cấp, ngành cần tiếp tục tăng cường hiệu quả triển khai các chính sách và nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập quốc tế, nắm bắt và đón đầu các xu hướng kinh doanh doanh mới, thị trường mới...,” bà Việt Nam nói/.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục