Nhận định cơ chế quản lý hoạt động gây nuôi thương mại động vật hoang dã trên cả nước còn lỏng lẻo và thiếu sự giám sát hiệu quả đã tạo điều kiện cho các đối tượng buôn lậu lợi dụng hợp pháp hóa động vật bất hợp pháp, giới chuyên gia bảo tồn cho rằng giải pháp cấp thiết với Việt Nam hiện nay là cần ban hành “Danh mục động vật hoang dã được phép nuôi thương mại” để đảm bảo công tác quản lý.
Thông tin tại Tọa đàm “Giải pháp quản lý hoạt động gây nuôi thương mại động vật hoang dã tại Việt Nam” diễn ra ngày 13/9, đại diện Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV) cho biết Việt Nam hiện có khoảng 9.000 cơ sở nuôi thương mại động vật hoang dã đã được cấp phép; chưa kể nhiều cơ sở đang hoạt động tự phát.
Đáng lo ngại là có nhiều bằng chứng cho thấy cơ chế quản lý lỏng lẻo và thiếu sự giám sát hiệu quả đối với hoạt động nuôi thương mại động vật hoang dã đã tạo điều kiện cho các đối tượng lợi dụng nhằm thu lợi bất chính từ việc nhập lậu và hợp pháp hóa động vật hoang dã có nguồn gốc bất hợp pháp.
[Đặc vụ xóa sổ 'địa ngục chim trời': Cuộc chiến không khoan nhượng]
Thực trạng trên đã dẫn tới việc các cơ sở có thể dễ dàng mua bán “giấy phép vận chuyển” để chứng minh nguồn gốc hợp pháp của động vật hoang dã. Chưa kể, một số cơ sở đã và đang nuôi nhốt động vật hoang dã có nguồn gốc bất hợp pháp trước khi đăng ký với cơ quan chức năng, hoặc nuôi các loài không phải được cấp phép.
“Chính vì vậy, hoạt động gây nuôi thương mại động vật hoang dã đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đa dạng sinh học của đất nước,” đại diện ENV nói.
Để nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động gây nuôi thương mại động vật hoang dã và triệt tiêu được tình trạng gian lận trong công tác quản lý gây nuôi động vật kể trên, bà Bùi Thị Hà - Phó Giám đốc ENV cho rằng giải pháp khả thi hiện nay là cần ban hành Danh mục các loài động vật hoang dã được phép gây nuôi thương mại và giới hạn hoạt động nuôi thương mại trong những loài thuộc danh mục này.
Theo nhận định của bà Hà, danh mục trên sẽ giúp giải quyết các lỗ hổng trong quản lý hoạt động gây nuôi thương mại động vật hoang dã tại Việt Nam như: Bảo đảm tất cả các loài động vật hoang dã không phù hợp cho nuôi thương mại không bị nuôi nhốt, buôn bán trái phép hay nhập lậu vào các cơ sở nuôi thương mại.
Cùng với đó, quy trình cấp phép cũng sẽ đơn giản, nhanh chóng hơn. Cán bộ quản lý chỉ cần đối chiếu loài được đăng ký với Danh mục loài động vật hoang dã được phép nuôi thương mại và cấp phép nếu cơ sở đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy định mà không cần thực hiện thêm các thủ tục xác nhận với cơ quan khoa học.
Ngoài ra, chủ cơ sở cũng sẽ nắm rõ những loài được phép nuôi thương mại và đầu tư nguồn lực phù hợp cho hoạt động nuôi. Danh mục được ban hành có thể đi kèm với quy trình đăng ký được đơn giản hóa tạo điều kiện cho các cơ sở nuôi.
Trên cơ sở đó, Danh mục động vật hoang dã được phép nuôi thương mại sẽ được cập nhật hàng năm từ đề xuất của người nuôi, cơ quan quản lý sau khi tham vấn ý kiến của cơ quan khoa học, đảm bảo tạo điều kiện cho người nuôi./.