Theo ngành thủy sản các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, năm 2011 toàn vùng đưa 800.000 ha mặt nước vào nuôi thủy sản, phấn đấu đạt sản lượng thủy sản nuôi là 2,4 triệu tấn, tăng gần 160.000 tấn so năm 2010.
Đối tượng nuôi chủ yếu là tôm sú, tôm chân trắng, cá tra, cá rô phi, nghêu (phục vụ xuất khẩu), tôm càng xanh, cá điêu hồng, chim trắng, thác lác, bống tượng, sò huyết, vẹm xanh, bào ngư, ốc hương (phục vụ trong nước).
Phương thức nuôi chủ yếu là quảng canh cải tiến đối với tôm sú và nghêu; nuôi thâm canh đối với tôm chân trắng và cá tra. Các đối tượng còn lại nuôi theo phương thức quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh.
Vùng nuôi tập trung là các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre. Nuôi nước ngọt tập trung ở các tỉnh ven sông Hậu và sông Tiền như An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long.
Các tỉnh tăng cường đào tạo nhân lực phục vụ cho nuôi trồng, khai thác và chế biến có trình độ chuyên môn cao hơn, hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ nhằm đa dạng hóa các mặt hàng, đáp ứng tốt các đòi hỏi khắt khe của thị trường quốc tế; mở rộng hệ thống thông tin thị trường, quảng bá, tiếp thị đối với từng nhóm sản phẩm nhằm tiêu thụ hết sản phẩm làm ra.
Các tỉnh tiếp tục xây dựng hệ thống thủy lợi đa mục tiêu cho vùng nước ngọt, nước lợ, phù hợp với kịch bản biến đổi khí hậu đồng thời bảo đảm cấp, thoát nước tốt tại các vùng nuôi tập trung; đẩy mạnh kiểm dịch nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc nhập con giống không đạt chuẩn vào các vùng nuôi, trước hết là giống chủ lực phục vụ xuất khẩu gồm tôm sú, cá tra.
Các tỉnh tăng cường quản lý môi truờng nước vùng nuôi, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu; tăng cường quản lý chất lượng, an tòan vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế.
Việc sản xuất gắn sản xuất với yêu cầu của thị trường, bảo đảm nguồn nguyên liệu đủ cho chế biến và tiêu dùng, tránh khủng hoảng thiếu, thừa nguyên liệu.
Đồng bằng sông Cửu Long đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng các khu chế biến tập trung, áp dụng hệ thống quản lý đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; lập báo cáo hiện trạng môi trường thủy sản phục vụ cho công tác quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên, ban hành tiêu chuẩn chất thải trong các doanh nghiệp chế biến và tiêu chuẩn nước thải trong các cơ sở nuôi thủy sản để quản lý ô nhiễm, phục vụ tốt quản lý môi trường./.
Đối tượng nuôi chủ yếu là tôm sú, tôm chân trắng, cá tra, cá rô phi, nghêu (phục vụ xuất khẩu), tôm càng xanh, cá điêu hồng, chim trắng, thác lác, bống tượng, sò huyết, vẹm xanh, bào ngư, ốc hương (phục vụ trong nước).
Phương thức nuôi chủ yếu là quảng canh cải tiến đối với tôm sú và nghêu; nuôi thâm canh đối với tôm chân trắng và cá tra. Các đối tượng còn lại nuôi theo phương thức quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh.
Vùng nuôi tập trung là các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre. Nuôi nước ngọt tập trung ở các tỉnh ven sông Hậu và sông Tiền như An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long.
Các tỉnh tăng cường đào tạo nhân lực phục vụ cho nuôi trồng, khai thác và chế biến có trình độ chuyên môn cao hơn, hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ nhằm đa dạng hóa các mặt hàng, đáp ứng tốt các đòi hỏi khắt khe của thị trường quốc tế; mở rộng hệ thống thông tin thị trường, quảng bá, tiếp thị đối với từng nhóm sản phẩm nhằm tiêu thụ hết sản phẩm làm ra.
Các tỉnh tiếp tục xây dựng hệ thống thủy lợi đa mục tiêu cho vùng nước ngọt, nước lợ, phù hợp với kịch bản biến đổi khí hậu đồng thời bảo đảm cấp, thoát nước tốt tại các vùng nuôi tập trung; đẩy mạnh kiểm dịch nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc nhập con giống không đạt chuẩn vào các vùng nuôi, trước hết là giống chủ lực phục vụ xuất khẩu gồm tôm sú, cá tra.
Các tỉnh tăng cường quản lý môi truờng nước vùng nuôi, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu; tăng cường quản lý chất lượng, an tòan vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế.
Việc sản xuất gắn sản xuất với yêu cầu của thị trường, bảo đảm nguồn nguyên liệu đủ cho chế biến và tiêu dùng, tránh khủng hoảng thiếu, thừa nguyên liệu.
Đồng bằng sông Cửu Long đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng các khu chế biến tập trung, áp dụng hệ thống quản lý đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; lập báo cáo hiện trạng môi trường thủy sản phục vụ cho công tác quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên, ban hành tiêu chuẩn chất thải trong các doanh nghiệp chế biến và tiêu chuẩn nước thải trong các cơ sở nuôi thủy sản để quản lý ô nhiễm, phục vụ tốt quản lý môi trường./.
Thế Đạt (TTXVN/Vietnam+)