CIEM dự báo 3 kịch bản tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2023

Kịch bản lạc quan, CIEM kỳ vọng tăng trưởng GDP có thể ở mức 6,46% trong năm 2023. Theo đó, xuất khẩu cả năm 2023 giảm 2,17%, CPI bình quân tăng 4,39%, cán cân thương mại đạt thặng dư 6,8 tỷ USD.
Kịch bản 3: Lạc quan hơn với giả thiết bối cảnh kinh tế thế giới có một số chuyển biến tích cực hơn và sự quyết liệt trong cải cách, điều hành ở Việt Nam. (Ảnh: Hạnh Nguyễn/Vietnam+)

Tại hội thảo công bố Báo cáo “Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và triển vọng cuối năm 2023,” ngày 10/7, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã đưa ra 3 kịch bản dự báo cho kinh tế Việt Nam năm 2023.

GDP có thể đạt hơn 6%?

Dù còn khoảng cách so với mục tiêu đề ra, song tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã ghi nhận sự cải thiện, cụ thể là quý 1 đạt 3,28%, quý hai là 4,14% và sáu tháng đầu năm đạt 3,72%.

Trên cơ sở đó, CIEM dự báo kịch bản 1: Giả thiết các yếu tố kinh tế thế giới tiếp tục duy trì phù hợp với đánh giá của các tổ chức quốc tế và Việt Nam duy trì nỗ lực chính sách tương tự như nửa cuối của các năm 2021-2022. Tăng trưởng GDP khả năng đạt 5,34% trong năm 2023; trong đó xuất khẩu cả năm giảm 5,64% và chỉ số CPI bình quân tăng 3,43%. Cán cân thương mại đạt thặng dư ở mức 9,1 tỷ USD.

[Nghị quyết về phân bổ vốn Chương trình Phục hồi và Phát triển Kinh tế]

Kịch bản 2: Giữ nguyên hầu hết các giả thiết trong kịch bản 1 về các yếu tố kinh tế thế giới, song có một số điều chỉnh nới lỏng tiền tệ và tài khóa tích cực hơn ở Việt Nam. Theo đó, CIEM kỳ vọng tăng trưởng GDP dự báo ở mức 5,72% trong năm, xuất khẩu giảm 3,66% và CPI bình quân tăng 3,87%, cán cân thương mại đạt thặng dư ở mức 10,3 tỷ USD.

Kịch bản 3: Lạc quan hơn với giả thiết bối cảnh kinh tế thế giới có một số chuyển biến tích cực hơn (tăng trưởng phục hồi, gián đoạn chuỗi cung ứng giảm đáng kể, lạm phát ở Mỹ giảm, thời tiết thuận lợi hơn…) và sự quyết liệt trong cải cách, điều hành ở Việt Nam. Nhờ vậy, hoạt động giải ngân và hấp thụ đầu tư công, tín dụng đạt kết quả tối đa. Thêm vào đó, môi trường kinh doanh và năng suất lao động tiếp tục cải thiện. Hoạt động đầu tư được thúc đẩy và thực hiện theo hướng hiệu quả hơn. Ở kịch bản này, CIEM kỳ vọng tăng trưởng GDP có thể ở mức 6,46% trong năm 2023. Theo đó, xuất khẩu cả năm chỉ giảm 2,17%, CPI bình quân tăng 4,39%, cán cân thương mại đạt thặng dư ở mức 6,8 tỷ USD.

Hội thảo công bố Báo cáo “Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và triển vọng cuối năm 2023,” ngày 10/7, (Ảnh: PV/Vietnam+)

Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp (CIEM) nhận định triển vọng kinh tế Việt Nam trong các tháng cuối năm 2023 có thể chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.

Ông Dương đề cập đến khả năng tiếp tục cũng như duy trì mức độ thắt chặt tiền tệ ở các nền kinh tế chủ chốt. Theo đó, các nền kinh tế lớn sẽ gia tăng cạnh tranh chiến lược (cả về địa chính trị, kinh tế, công nghệ). Tuy nhiên, xu hướng cân bằng hợp tác theo hướng tránh “chọn bên” sẽ phổ biến hơn ở các nền kinh tế có quy mô nhỏ và trung bình. Ngoài ra, dòng vốn đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục có sự chuyển dịch trong bối cảnh các nước đang chuẩn bị thực thi “Cơ chế thuế tối thiểu toàn cầu.”

Trong nước, ông Dương nhấn mạnh về tiến độ thực hiện các nhiệm vụ trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội và năng lực của Việt Nam trong việc thực hiện hài hòa, song hành cả chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.

Những bài học đắt giá

Theo báo cáo của CIEM, diễn biến thị trường tài chính toàn cầu trong 6 tháng đầu năm cho thấy ảnh hưởng tập trung vào những sự cố lớn đối với một số định chế tài chính ở Mỹ và Thụy Sỹ. Đây hai nền kinh tế có nhiều kết nối và ảnh hưởng trên thị trường tài chính quốc tế.

Nhóm nghiên cứu báo cáo nhìn nhận một số vấn đề với các giải pháp can thiệp, hỗ trợ các ngân hàng này xử lý sự cố, từ đó phân tích diễn biến và nguyên nhân sự cố ở các định chế tài chính ở Mỹ, Thụy Sỹ giúp đưa ra một số bài học.

Cụ thể, bài học lớn nhất là về giám sát hoạt động của ngân hàng đồng thời không được đánh giá thấp rủi ro của mọi loại tài sản. Các đánh giá cần được làm sớm và đúng mức về tác động dây chuyền của sự cố ngân hàng. Theo CIEM, bài học về bảo đảm tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật và thận trọng khi cân nhắc các rủi ro liên quan đến môi trường, xã hội và quản trị cũng cần phải nhắc lại. Mặt khác, công tác điều hành lãi suất để kiểm soát lạm phát cần phải tính toán thấu đáo đến các kênh truyền dẫn của chính sách tiền tệ, cũng như ảnh hưởng đối với hoạt động ổn định và an toàn của các ngân hàng.

Tại hội thảo, Tiến sỹ Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM khẳng định Việt Nam vẫn duy trì cách tiếp cận toàn diện, kết hợp phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội với xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Với cách tiếp cận đó, một yêu cầu quan trọng là phải giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Theo Tiến sỹ Trần Thị Hồng Minh, Chính phủ đã đánh giá sát sao, thận trọng đối với các xu hướng, vấn đề kinh tế quốc tế và trong nước, từ đó phát huy tác động tích cực hướng tới giảm thiểu các tác động bất lợi từ bên ngoài. Nổi bật nhất là Việt Nam đã giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá và bảo đảm an sinh xã hội.

“Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển và lại ở một khu vực châu Á-Thái Bình Dương phát triển năng động. Chính vì vậy, tăng trưởng kinh tế luôn là một mục tiêu quan trọng. Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội chính là những nền tảng không thể thiếu. Song, Việt Nam vẫn phải phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu đề ra, trong đó có thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có chất lượng, có tính bền vững,” bà Minh nhấn mạnh.

Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội chính là những nền tảng không thể thiếu. (Ảnh: Hạnh Nguyễn/Vietnam+)

Để làm được điều đó, bà Minh cho rằng Chính phủ cần nhìn thẳng vào những vấn đề khó khăn của nền kinh tế, giải trình hiệu quả các nội dung liên quan, như kết quả tăng trưởng kinh tế trong 6 tháng đầu năm, định hướng lựa chọn tăng trưởng kinh tế hay lạm phát hoặc cả hai.

“Hướng tới tương lai, Việt Nam cũng cần chú trọng yêu cầu tạo động lực từ đổi mới sáng tạo, từ cải thiện năng suất lao động và từ các mô hình kinh tế mới,” bà Minh nói./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục