Chuông Vân Bản - Bảo vật quốc gia có số phận kỳ lạ

Chuông Vân Bản có số phận kỳ lạ bởi từ khi ra đời đến nay, ít nhất 3 lần chuông phải vùi mình dưới đáy biển suốt thời gian dài, có khi đến mấy trăm năm, nhưng không hề bị ôxy hóa.
Chuông Vân Bản được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. (Ảnh: Vietnam+)

Chuông Vân Bản đã chiếm giữ "ngôi vị" quả chuông cổ nhất Việt Nam suốt từ năm 1958 cho đến năm 1986 - khi chuông Thanh Mai (niên đại 798) được phát hiện và "soán ngôi".

Hiện nay, hồng chung Vân Bản vẫn là quả chuông lâu đời thứ hai ở Việt Nam, sau chuông Thanh Mai.

Chuông chùa Vân Bản (ở Đồ Sơn, Hải Phòng) có số phận kỳ lạ bởi từ khi ra đời đến nay, thời gian chuông Vân Bản ở dưới biển nhiều hơn thời gian được treo tại chùa. Ít nhất 3 lần chuông phải vùi mình dưới đáy biển trong thời gian dài, lần gần đây nhất bị ngâm dưới nước biển mấy trăm năm, nhưng không hề bị ôxy hóa.

Được phát hiện tại Đồ Sơn, Hải Phòng năm 1958, chuông Văn Bản được làm bằng đồng, có chiều cao 127cm, đường kính miệng 80cm. Trên thân chuông Vân Bản không khắc niên đại. Theo nghiên cứu của các nhà sử học, chuông được đúc trong thời Trần (thế kỷ 13), là một trong ba quả chuông cổ nhất Việt Nam trong thời điểm hiện tại.

(Ảnh: Vietnam+)

Chuông có kích thước lớn, gồm phần quai và thân. Quai chuông trang trí hình bồ lao (đôi rồng đấu lưng vào nhau), giữa quai, nơi vị trí cao nhất, đúc nổi búp sen. Chuông có 6 núm gõ tròn hình đóa sen nở. Miệng chuông loe, vành miệng trang trí 52 cánh sen kép to, nhỏ xen kẽ nhau.

Thân chuông khắc minh văn chữ Hán, nói về việc nhà sư tu hành khổ hạnh Hướng Tâm và Cư sỹ Đại Ố, đã có công khai phá sơn lâm, mở mang đất đai, dựng chùa Vân Bản và những người cung tiến đất đai cho chùa như Thị vệ nhân dũng thủ Nguyễn Văn Kịp và vợ Chu Thị Trãi cùng anh vợ là Chu Lâm. Chuông được vị quan Tả bộc xạ cung tiến vào chùa. Minh văn còn có lời nhắn gửi đời sau hãy phát tâm công đức giữ gìn, không để chùa bị hủy hoại, không được khuyết thiếu việc hương, đăng. Hoa lợi từ ruộng đất cúng dường dành cho cúng lễ, giỗ chạp.

Đặc biệt, qua minh văn còn cho biết một số chức quan thời Trần, đó là Tả bộc xạ, Thị vệ nhân dũng thủ. Minh văn cũng khắc ghi chữ Nam là 1 trong 10 chữ húy được quy định bởi vua Trần Anh Tông.

(Ảnh: Vietnam+)

Số phận kỳ lạ của chuông Vân Bản

Tương truyền, tháp Tường Long và chùa Vân Bản thời Lý là nơi đầu tiên đặt quả chuông Vân Bản.

Bảo tháp Tường Long, nằm cạnh chùa Vân Bản nơi có chuông Vân Bảo có từ thời Lý, được vua Lý Thánh Tông cho xây dựng. Tuy nhiên trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngày nay bảo tháp và ngôi chùa xưa đã trở thành phế tích.

Theo các bậc cao niên, xưa kia phía Tây của núi Tháp (tức nơi có tháp Tường Long) có một khe ăn sâu xuống biển. Khe này gần bến đò Họng, tức Nò Hầu.

Tương truyền, khi chùa tháp bị đổ nát, chuông lăn xuống bến Nò Hầu. Ít lâu sau, dân chúng hò nhau trục vớt được quả chuông ở bến đò Họng, rồi rước về chùa Nam gần đó, sau này gọi là chùa Vân Bản.

Trải qua vài trăm năm sau, do một trận bão lớn, chùa Vân Bản cổ bị đổ sập, quả chuông lại bị rơi lăn xuống biển ở chân núi Tháp.

Đến thời Lê, chùa Vân Bản được dân chúng xây lại nhỏ hơn và ở vị trí thấp hơn ngay chân núi. Khi khánh thành chùa mới, các phật tử mò tìm, trục vớt quả chuông cổ từ bến Đò Họng, đem về treo ở chùa.

Không lâu sau đó, chuông Vân Bản lại tiếp tục chìm xuống biển. Lần chìm thứ ba của đại hồng chung có nhiều giả thiết khác nhau. Có người cho rằng, chuông Vân Bản bị thất lạc từ thế kỷ 15 do dân làng cất giấu nơi lòng biển cả để tránh cuộc tàn sát, vơ vét di sản văn hóa Đại Việt của giặc Minh. Cũng có người cho rằng Trời Phật muốn giữ lại báu vật cho dân nước Nam, không muốn đại hồng chung rơi vào tay giặc nên giấu chuông xuống biển.

(Ảnh: Vietnam+)

Vào một buổi sáng mùa Hè năm 1958, một ngư dân quăng lưới kéo chài thấy vướng phải một vật cản lớn, không thể kéo lên. Sau đó, ngư dân hò nhau lặn xuống xem thì phát hiện một quả chuông đồng khổng lồ bị mắc trong lưới. Khi chuông vớt lên, người dân đoán đó có thể là cổ vật. Sau đó, các nhà khảo cổ học giám định và xác định đây chính là đại hồng chung chùa Vân Bản năm xưa.

Như vậy, từ khi ra đời đến nay, thời gian chuông Vân Bản "ngụ cư" dưới nước nhiều hơn thời gian được treo tại chùa. Nó không chỉ có giá trị độc bản về minh văn, mà còn phản ánh trình độ đúc đồng thể khối lớn của ông cha ta, với những họa tiết hoa văn tinh xảo, mang đậm dấu ấn của nghệ thuật Phật giáo - một tôn giáo đã trở thành Quốc giáo thời Lý-Trần./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục