Chú trọng lồng ghép bình đẳng giới vào các chính sách an sinh xã hội

Quá trình xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện các chính sách bảo đảm an sinh xã hội trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đã được lồng ghép vấn đề bình đẳng giới một cách cụ thể, thiết thực.
Các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do COVID-19 đều ưu tiên các đối tượng lao động nữ. (Ảnh minh họa: PV/Vietnam+)

Mặc dù Việt Nam đang có những bước tiến mạnh mẽ trong việc xóa bỏ bất bình đẳng giới song vấn đề này vẫn đang còn tồn tại nhiều thách thức. Trước nguy cơ đại dịch COVID-19 đang đe dọa những thành tựu về bình đẳng giới của Việt Nam, Chỉnh phủ Việt Nam đã kịp thời lồng ghép giới vào hầu hết các các chính sách hỗ trợ phục hồi kinh tế-xã hội.

Thành tựu về thu hẹp khoảng cách giới

Trong những năm gần đây, cộng đồng quốc tế đánh giá cao về những nỗ lực trong thực hiện bình đẳng giới của Việt Nam. Một số chỉ số phát triển được cải thiện đã đưa Việt Nam lên các bậc xếp hạng cao hơn về bình đẳng giới. Theo Báo cáo Phát triển con người năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đang ở mức 0,704, xếp thứ 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc nhóm các nước có HDI ở mức cao. 

Với chỉ số phát triển giới ở mức 0,997, Việt Nam xếp thứ 65 trong số 162 quốc gia và thuộc nhóm cao nhất trong số 5 nhóm trên thế giới về chỉ số giới. Đặc biệt, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam nằm trong nhóm cao nhất trong 3 nhóm trên toàn cầu.

Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà cho biết với nỗ lực của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần thu hẹp khoảng cách giới trong các lĩnh vực, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

“Đặc biệt, kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 với tỷ lệ 30,26% nữ đại biểu Quốc hội và gần 30% nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp là minh chứng rõ nét cho những nỗ lực trong thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam. Những thành tựu này sẽ là nền tảng vững chắc để các cấp, ngành tiếp tục duy trì và phát huy hơn nữa trong việc thực hiện các mục tiêu quốc gia bình đẳng giới trong giai đoạn tới,” Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà nói.

[Việt Nam là một ví dụ điển hình về thực thi mục tiêu bình đẳng giới]

Trong giai đoạn tiếp theo, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 đã đặt mục tiêu tổng quát là “tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước”. Chiến lược đưa ra các chỉ tiêu cụ thể nhằm tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới trong các lĩnh vực: Chính trị; kinh tế, lao động; trong đời sống gia đình và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới; y tế; giáo dục, đào tạo; thông tin, truyền thông. 

Bên cạnh một số chỉ tiêu tiếp tục duy trì kết quả của giai đoạn trước, Chiến lược 2021-2030 còn bao gồm các chỉ tiêu mới như: Giảm tỷ trọng lao động nữ làm việc trong khu vực nông nghiệp; tăng các cơ sở trợ giúp xã hội công lập triển khai các hoạt động trợ giúp, phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới; giảm tỷ suất sinh ở vị thành niên; nội dung về giới, bình đẳng giới được đưa vào chương trình giảng dạy trong hệ thống giáo dục quốc dân...

Tăng cường hỗ trợ cho phụ nữ

Cho đến nay, sự lây lan mạnh mẽ của COVID-19 vẫn đang đặt ra các thách thức lớn cho quá trình phục hồi và phát triển kinh tế cũng như triển khai các giải pháp nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, đặc biệt là những đối tượng yếu thế như lao động nữ làm việc trong khu vực phi chính thức, lao động nữ di cư.

Trao tiền hỗ trợ cho nữ lao động bán vé số. (Ảnh: TTXVN phát)

Ông Lê Khánh Lương, quyền Vụ trưởng Vụ Bình đẳng giới (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) cho biết trước tác động nặng nề của đại dịch COVID-19, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành và triển khai nhiều chính sách hỗ trợ người dân và doanh nghiệp gặp khó khăn do đại dịch COVID-19; trong đó phụ nữ, lao động nữ được hỗ trợ chiếm tỷ lệ lớn như nhóm chính sách về bảo hiểm xã hội, nhóm chính sách hỗ trợ bằng tiền, nhóm chính sách cho vay vốn...

"Đặc biệt, người lao động mang thai, đang nuôi con dưới 6 tuổi; trẻ em dưới 6 tuổi là con của người lao động bị ảnh hưởng bởi COVID-19; trẻ em là F0, F1; trẻ em mồ côi mất cha, mẹ do COVID-19 và trẻ em sơ sinh là con của sản phụ bị nhiễm COVID-19 nhận được hỗ trợ bổ sung ở mức cao hơn với các thủ tục nhanh chóng, đơn giản," ông Lê Khánh Lương cho hay.

Ngoài ra, chính sách ưu tiên tiêm phòng vaccine COVID-19 cũng được mở rộng cho phụ nữ mang thai và đang cho con bú. Các dịch vụ hỗ trợ và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em cũng được tăng cường.

Trong năm 2022, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội với mục tiêu phòng, chống dịch COVID-19 hiệu quả; bảo đảm an sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là người lao động, người nghèo, người yếu thế, đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh. Trong quá trình triển khai, vấn đề về bình đẳng giới đều được lồng ghép khi xây dựng các chính sách hỗ trợ.

Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà cho biết việc xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện các chính sách bảo đảm an sinh xã hội trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đã được lồng ghép vấn đề bình đẳng giới một cách cụ thể với các giải pháp thiết thực nhằm đảm bảo các quyền lợi và tính đến nhu cầu của mỗi giới, góp phần rút ngắn khoảng cách về giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Bên cạnh việc lồng ghép giới vào các chính sách, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 125/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới. Đây là hành lang pháp lý quan trọng góp phần đảm bảo, thúc đẩy bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới. Nghị định quy định cụ thể về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực bình đẳng giới…/.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục