Là bộ trưởng đầu tiên đăng đàn trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội vào sáng 22/11, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng nhận được 42 câu hỏi của các đại biểu Quốc hội, trong đó tập trung vào 3 nhóm vấn đề là tình trạng thiếu điện, công tác điều hành xuất nhập khẩu và dự án bauxite Tây Nguyên.
Cần tính đến hiệu quả xã hội và sự lan tỏa của dự án khai thác bauxite Tây Nguyên
Sự mâu thuẫn trong việc đặt nhà máy chế biến alumin ở địa bàn thiếu nước, thiếu điện, hiệu quả kinh tế của dự án, việc đảm bảo an toàn cho các hồ chứa bùn đỏ... là những vấn đề mà các đại biểu Vũ Quang Hải (Hưng Yên), Nguyễn Lân Dũng (Đắk Lắk) đặt ra đối với Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng.
Bộ trưởng cho biết việc địa điểm đặt nhà máy đã được Chính phủ cân nhắc kỹ. Nếu chỉ thuần túy hiệu quả kinh tế thì đặt ở phía dưới biển hiệu quả cao hơn so với địa bàn khai thác. Nhưng khi quyết định các chủ trương lớn của đất nước, Chính phủ còn tính đến hiệu quả xã hội và tính lan tỏa của dự án. Việc đặt nhà máy tại địa bàn Tây Nguyên là vì lợi ích của đồng bào địa phương, do vậy Chính phủ đã tính toán đủ nước, điện để phục vụ sản xuất cho dự án này.
Giải trình thêm về các vấn đề kỹ thuật của dự án khai thác bauxite, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên cho biết toàn bộ thiết bị vận chuyển bùn đỏ đều có độ an toàn cao, khả năng bị ăn mòn là không có.
Hồ bùn đỏ của Việt Nam được xây dựng trên nền hệ thống á sét với 5 lớp bao bọc, với độ thẩm thấu cao hơn rất nhiều so với Hungary.
Các bể chứa bùn đỏ của Việt Nam đảm bảo hệ số an toàn cao cho môi trường xung quanh ngày cả khi có sự cố xảy ra, Bộ trưởng Nguyên khẳng định.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình điện
Trả lời câu hỏi của các đại biểu Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng), Vũ Quang Hải (Hưng Yên) về nguyên nhân của việc thiếu điện, việc chậm tiến độ của một số nhà máy nhiệt điện cũng như đánh giá về tình hình thực hiện sơ đồ điện 6, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng cho biết năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt tổng sơ đồ điện giai đoạn 2006-2015 và có tính đến năm 2020.
Qua nửa thời gian thực hiện Tổng sơ đồ quy hoạch điện 6, bên cạnh một số kết quả đã đạt được, vẫn còn một số hạn chế thiếu sót, nhất là trong mùa khô vừa qua, tình hình thiếu điện trên diện rộng đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Kiểm điểm lại vấn đề này, Bộ Công Thương nhận thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do chưa thực hiện đầy đủ các mục tiêu đã quy định trong Tổng sơ đồ 6.
Theo mục tiêu quy hoạch của Tổng sơ đồ, đến năm 2015, năng lực các nhà máy điện được huy động đạt khoảng 50.000 MW công suất.
Tuy nhiên, đến hết năm 2010, dự kiến có khoảng 20.900 MW công suất và đến tháng 6/2011 có 22.500 MW công suất.
Năm 2015, mục tiêu đạt 50.000 MW là khó thực hiện mà chỉ đạt khoảng 80%.
Bộ trưởng khẳng định việc chậm thực hiện quy hoạch theo Tổng sơ đồ 6 là do nhiều công trình chậm tiến độ vì khó thu xếp vốn. Giai đoạn đầu thực hiện quy hoạch sơ đồ điện 6 đúng vào lúc khủng hoảng kinh tế cuối năm 2007, nhiều ngân hàng dừng, không cho vay đối với các dự án đầu tư của ngành điện, trong khi đó phần lớn các dự án đầu tư vào ngành điện đều sử dụng nguồn vốn vay thương mại nên đã gặp nhiều khó khăn trong việc thu xếp vốn.
Bên cạnh đó, tình hình thiên tai, hạn hán kéo dài trong thời gian qua và một số dự án tuy đi vào hoạt động giai đoạn đầu nhưng vận hành chưa ổn định đã làm thiếu hụt nguồn điện cho sản xuất và đời sống.
Xung quanh vấn đề quy hoạch thủy điện nhỏ và những tác động của công trình, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cho biết toàn quốc có 230 dự án thủy điện nhỏ được quy hoạch với tổng công suất 1.520 MW nhưng đến nay mới triển khai được 90 dự án với tổng công suất khoảng 500 MW.
Vừa qua, Bộ đã thu hồi 38 dự án ở các tỉnh miền Trung. Trong thời gian tới, Bộ tiếp tục rà soát quy hoạch về điện nói chung, trong đó có quy hoạch thủy điện nhỏ.
Những dự án không tham gia nhiều vào phát triển kinh tế xã hội của địa phương, lợi ích kinh tế nhỏ mà có nhiều ảnh hưởng đến môi trường hoặc không phù hợp với quy hoạch sẽ tiếp tục bị thu hồi.
Cũng liên quan đến vấn đề thủy điện, trả lời chất vấn của các đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương (Ninh Thuận), Vũ Quang Hải (Hưng Yên), Nguyễn Văn Nhượng (Quảng Bình) về việc xả lũ của các hồ thủy điện gây thiệt hại cho phía hạ du, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cho biết khu vực Tây Nguyên và miền Trung do đặc điểm sông ngòi có độ dốc lớn, chiều dài ngắn, mùa khô rất cạn kiệt, mùa mưa nước lên nhanh nên phần nhiều các dự án thủy điện nhỏ ở khu vực này không có chức năng điều tiết lũ.
Song, qua quy hoạch, Bộ Công Thương phối hợp với các địa phương đã rà soát lại và bổ sung nhiệm vụ tham gia một phần điều tiết lũ cho một số dự án như thủy điện A Vương, thủy điện sông Ba Hạ...
Thực hiện yêu cầu của Thủ tướng, Bộ đã xây dựng các quy hoạch vận hành liên hồ chứa. Các quy trình vận hành liên hồ chứa của các thủy điện đều được yêu cầu thực hiện theo các nguyên tắc an toàn tuyệt đối cho công trình khi có lũ, tham gia vào việc giảm và cắt lũ cho vùng hạ du khi cần thiết, tiếp đó mới đến yêu cầu phát điện.
Tuy nhiên, vừa qua một số dự án thủy điện làm chưa đúng quy trình được phê duyệt, Bộ đã yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam kiểm tra và xác định nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan quản lý, tùy theo mức độ sai phạm sẽ kiên quyết xử lý theo quy định hiện hành.
Nếu các công trình thủy điện nhỏ tuân thủ đúng quy định về quy trình điều tiết hồ chứa, tăng cường công tác kiểm tra thì sẽ hạn chế được tối đa các thiệt hại có thể xảy ra, Bộ trưởng khẳng định.
Về giải pháp huy động vốn cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng khẳng định dù có tái cơ cấu thế nào đi nữa thì Tập đoàn này vẫn là đơn vị chủ lực, việc thu xếp vốn như thế nào, bản thân ngành điện bằng các nỗ lực và khả năng của mình phải tự thu xếp các nguồn vốn. Muốn có được nguồn vốn này thì bản thân ngành điện phải có tích lũy thông qua cơ chế giá điện. Chính phủ cũng đã chỉ đạo và đàm phán với một số nhà tài trợ nước ngoài để thu hút vốn.
Làm rõ thêm, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc cho rằng quy hoạch phát triển thủy điện là phù hợp, bản quy hoạch Tổng sơ đồ điện 6 là đầy đủ cả phát triển nhiệt điện, thủy điện. Nếu thực hiện thực hiện đúng Tổng sơ đồ 6 thì không thể thiếu điện. Các dự án nhiệt điện đều chậm tiến độ và có vấn đề về kỹ thuật.
Qua kiểm tra của Bộ đối với một số dự án nhiệt điện thì đều có vấn đề kỹ thuật, khi đưa vào vận hành đều bị trục trặc, chậm tiến độ nhiều. Cái chậm này do chính năng lực nhà thầu, việc chọn nhà thầu chưa hợp lý, năng lực của chủ đầu tư trong vấn đề chọn nhà thầu chưa tốt.
Nhận trách nhiệm về tình hình thiếu điện với Quốc hội và cử tri, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải cho rằng nếu ta thực hiện đúng quy hoạch sơ đồ điện 6 thì đã không xảy ra tình trạng thiếu điện. Quy hoạch này đưa ra lượng nhà máy điện hết sức lớn, cần đầu tư khoảng 3.000MW một năm với tổng vốn đầu tư 6 tỷ USD/năm, chiếm trên 10% tổng mức đầu tư toàn xã hội.
Mặc dù Chính phủ thường xuyên điều hành để đảm bảo nguồn vốn khởi công dự án nhưng việc việc thu hút vốn hết sức khó khăn, chủ yếu huy động từ trong nước. Chính vì vậy, đến hết năm 2010 việc thực hiện Tổng sơ đồ 6 về nguồn điện khả năng chỉ đạt 74% và về lưới điện khoảng 61%, chưa đạt được kế hoạch, quy hoạch đã đề ra.
Bên cạnh đó, việc phần lớn các công trình nguồn và lưới điện đều vướng khâu giải phóng mặt bằng dẫn đến chậm tiến độ; giá điện của Việt Nam nằm trong nhóm các nước có giá thấp làm cho việc huy động vốn cho các công trình, đặc biệt là các công trình của tư nhân không hấp dẫn nên không thu hút được; năng lực của chủ đầu tư và các nhà thầu thấp; ý thức tiết kiệm điện chưa tốt và trình độ công nghệ sử dụng điện lạc hậu cũng là những bất cập hiện nay.
Để đảm bảo đủ điện, theo Phó Thủ tướng, trước hết phải tập trung tháo gỡ vướng mắc của 35 công trình đang thi công bị chậm tiến độ, thúc đẩy các dự án thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài cho phát triển điện trong đó có cơ chế về giá; chấn chỉnh các chủ đầu tư, các nhà thầu trong việc thực hiện hợp đồng, bảo đảm tiến độ, chất lượng dự án.
Cùng với đó, thực hiện tuyên truyền sử dụng điện và năng lượng tiết kiệm hiệu quả, có cơ chế bắt buộc dán nhãn các thiết bị sử dụng điện và quy định hiệu suất thiết bị sử dụng điện, không cho nhập sản xuất các thiết bị sử dụng điện cho sản xuất mà không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp.
Theo Phó Thủ tướng, thực hiện tái cơ cấu ngành điện, cuối năm nay, Chính phủ sẽ ban hành giải pháp và đến năm 2011 sẽ thực hiện thị trường điện cạnh tranh, sẽ tách nhà máy điện ra khỏi Tập đoàn Điện lực Việt Nam, chỉ để lại một số nhà máy điện chiến lược, phần truyền tải, phân phối vẫn do tập đoàn thực hiện ở giai đoạn đầu; đồng thời chuẩn bị thực hiện đề án giá điện theo cơ chế thị trường.
Nhiều biện pháp nhằm giảm nhập siêu và hạn chế tăng giá các mặt hàng thiết yếu
Đại biểu Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng), Phạm Thị Loan (Hà Nội), Trần Du Lịch (Thành phố Hồ Chí Minh), Mai Thị Ánh Tuyết (An Giang) đặt câu hỏi về tình trạng giá các mặt hàng thiết yếu ngày một tăng cao ảnh hưởng đến doanh nghiệp và người dân, đặc biệt là những người có thu nhập thấp; về tình trạng nhập siêu và yêu cầu Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng cho biết các giải pháp của Bộ trong thời gian tới để khắc phục tình trạng trên.
Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cho biết năm 2010 là năm đầu tiên Việt Nam sẽ có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn nhập khẩu trong đó xuất khẩu đạt 23% và nhập khẩu đạt 19%.
Tuy tình hình xuất khẩu năm 2010 đã được cải thiện nhưng nếu đánh giá tổng thể thì nhập khẩu vẫn nhiều hơn xuất khẩu. Nhập siêu vẫn là thách thức với nền kinh tế nước ta, gây ảnh hưởng đến cán cân thương mại, kinh tế vĩ mô cũng như chỉ số giá tiêu dùng trong nước...
Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt nhằm tăng nhập khẩu, giảm nhập siêu và đã thu được những kết quả đáng mừng, nhập siêu đã giảm từ 30% so với kim ngạch xuất khẩu của năm 2008 xuống còn khoảng 17% của năm 2010.
Tuy nhiên, Việt Nam đang trong quá trình đầu tư phát triển, phần nhiều máy móc thiết bị, nguyên liệu... vẫn phải nhập khẩu và tỷ lệ này chiếm phần lớn trong kim ngạch nhập khẩu.
Chúng ta cũng chỉ nhập khẩu chưa đến 7% hàng tiêu dùng như ôtô 4 chỗ, hóa mỹ phẩm...
Theo Bộ trưởng, lý do trong thời gian tới vẫn phải duy trì nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu là do công nghiệp phụ trợ trong nước, tuy đã được quan tâm nhưng vẫn còn nhiều hạn chế; giá cả nhiều mặt hàng tăng cao, tốc độ tăng giá hàng xuất khẩu của Việt Nam không bằng hàng máy móc phải nhập khẩu; người tiêu dùng vẫn có tư tưởng dùng hàng ngoại...
Hiện tại, Bộ đã triển khai nhiều biện pháp nhằm giảm tình trạng nhập siêu, phấn đấu tới năm 2015 giảm tỷ lệ nhập siêu trên kim ngạch xuất khẩu xuống còn 14%.
Đại biểu Phạm Thị Loan (Hà Nội) đề nghị Bộ trưởng cho biết các biện pháp cụ thể nhằm giảm nhập siêu nói chung và giảm nhập siêu từ Trung Quốc để cân bằng cán cân thương mại giữa hai nước.
Theo Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ đã cùng các bộ, ngành triển khai nhiều biện pháp tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc, qua đó góp phần giảm dần nhập khẩu, cân bằng cán cân thương mại về nhập khẩu xuất khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Đã có nhiều biện pháp được thực hiện, trong đó đã bàn và chuẩn bị ký kết Quy hoạch phát triển thương mại 5 năm giữa hai nước, trong đó có nhiều biện pháp cụ thể để thúc đẩy thương mại giữa hai bên theo hướng cải thiện tình trạng nhập siêu của Việt Nam.
Bộ đã ký kết thỏa thuận với Bộ Thương mại Trung Quốc, theo đó Trung Quốc sẽ tăng cường nhập khẩu các hàng hóa của Việt Nam mà Trung Quốc có nhu cầu, gồm 18 nhóm mặt hàng.
Phía Trung Quốc chỉ đạo các doanh nghiệp, các địa phương tính toán để nhập khẩu nhiều hơn 18 nhóm mặt hàng, đồng thời phía Trung Quốc cũng thống nhất tạo điều kiện để Việt Nam tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường Trung Quốc thông qua các hội chợ, triển lãm...
Chưa đồng tình với câu trả lời của Bộ trưởng, đại biểu Trần Ngọc Vinh tiếp tục chất vấn về việc giá tăng cao ảnh hưởng đến doanh nghiệp và người dân.
Bộ trưởng khẳng định Chính phủ yêu cầu trong bất cứ tình huống nào cũng phải đảm bảo cân đối cung cầu các hàng hóa thiết yếu. Và thực tế đã cho thấy, trong giai đoạn khó khăn nhất của nền kinh tế, chúng ta vẫn cơ bản đảm bảo việc cung cấp hàng hóa thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân.
Hiện tại, chúng ta đang giữ được cân đối cung cầu, Bộ sẽ tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa để góp phần bình ổn giá thông qua các biện pháp huy động năng lực sản xuất trong nước, đảm bảo cung cầu, tăng khả năng cạnh tranh, tăng cường kiểm tra, kiểm soát xử lý sai phạm trong lĩnh vực giá...
Bộ trưởng cũng lý giải nguyên nhân giá tăng đột biến là do kinh tế Việt Nam là nền kinh tế mở, giá cả trong nước liên quan nhiều đến giá cả bên ngoài, nguyên nhân thiên tai, dịch bệnh, kinh tế Việt Nam đang trên đà phục hồi, sức mua lớn có tác động đến giá cả, sản xuất năng xuất thấp, chi phí cao, giá thành cao.
Ngoài ra, năm 2010 là năm có nhiều ngày lễ lớn, sinh hoạt đi lại của người dân nhiều dẫn đến chi phí tăng...
Cũng trong phiên trả lời chất vấn của mình, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng đã trả lời các vấn đề về tình trạng thiếu phân bón, phân bón giả, việc xuất khẩu phân bón trong khi trong nước thiếu và các chế tài xử lý các sai phạm...
Bộ trưởng khẳng định theo đúng tiến độ, đến năm 2012 sẽ xây xong một số nhà máy phân đạm và đến năm 2015 sẽ đủ cung ứng phân bón sản xuất trong nước./.
Cần tính đến hiệu quả xã hội và sự lan tỏa của dự án khai thác bauxite Tây Nguyên
Sự mâu thuẫn trong việc đặt nhà máy chế biến alumin ở địa bàn thiếu nước, thiếu điện, hiệu quả kinh tế của dự án, việc đảm bảo an toàn cho các hồ chứa bùn đỏ... là những vấn đề mà các đại biểu Vũ Quang Hải (Hưng Yên), Nguyễn Lân Dũng (Đắk Lắk) đặt ra đối với Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng.
Bộ trưởng cho biết việc địa điểm đặt nhà máy đã được Chính phủ cân nhắc kỹ. Nếu chỉ thuần túy hiệu quả kinh tế thì đặt ở phía dưới biển hiệu quả cao hơn so với địa bàn khai thác. Nhưng khi quyết định các chủ trương lớn của đất nước, Chính phủ còn tính đến hiệu quả xã hội và tính lan tỏa của dự án. Việc đặt nhà máy tại địa bàn Tây Nguyên là vì lợi ích của đồng bào địa phương, do vậy Chính phủ đã tính toán đủ nước, điện để phục vụ sản xuất cho dự án này.
Giải trình thêm về các vấn đề kỹ thuật của dự án khai thác bauxite, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên cho biết toàn bộ thiết bị vận chuyển bùn đỏ đều có độ an toàn cao, khả năng bị ăn mòn là không có.
Hồ bùn đỏ của Việt Nam được xây dựng trên nền hệ thống á sét với 5 lớp bao bọc, với độ thẩm thấu cao hơn rất nhiều so với Hungary.
Các bể chứa bùn đỏ của Việt Nam đảm bảo hệ số an toàn cao cho môi trường xung quanh ngày cả khi có sự cố xảy ra, Bộ trưởng Nguyên khẳng định.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình điện
Trả lời câu hỏi của các đại biểu Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng), Vũ Quang Hải (Hưng Yên) về nguyên nhân của việc thiếu điện, việc chậm tiến độ của một số nhà máy nhiệt điện cũng như đánh giá về tình hình thực hiện sơ đồ điện 6, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng cho biết năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt tổng sơ đồ điện giai đoạn 2006-2015 và có tính đến năm 2020.
Qua nửa thời gian thực hiện Tổng sơ đồ quy hoạch điện 6, bên cạnh một số kết quả đã đạt được, vẫn còn một số hạn chế thiếu sót, nhất là trong mùa khô vừa qua, tình hình thiếu điện trên diện rộng đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Kiểm điểm lại vấn đề này, Bộ Công Thương nhận thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do chưa thực hiện đầy đủ các mục tiêu đã quy định trong Tổng sơ đồ 6.
Theo mục tiêu quy hoạch của Tổng sơ đồ, đến năm 2015, năng lực các nhà máy điện được huy động đạt khoảng 50.000 MW công suất.
Tuy nhiên, đến hết năm 2010, dự kiến có khoảng 20.900 MW công suất và đến tháng 6/2011 có 22.500 MW công suất.
Năm 2015, mục tiêu đạt 50.000 MW là khó thực hiện mà chỉ đạt khoảng 80%.
Bộ trưởng khẳng định việc chậm thực hiện quy hoạch theo Tổng sơ đồ 6 là do nhiều công trình chậm tiến độ vì khó thu xếp vốn. Giai đoạn đầu thực hiện quy hoạch sơ đồ điện 6 đúng vào lúc khủng hoảng kinh tế cuối năm 2007, nhiều ngân hàng dừng, không cho vay đối với các dự án đầu tư của ngành điện, trong khi đó phần lớn các dự án đầu tư vào ngành điện đều sử dụng nguồn vốn vay thương mại nên đã gặp nhiều khó khăn trong việc thu xếp vốn.
Bên cạnh đó, tình hình thiên tai, hạn hán kéo dài trong thời gian qua và một số dự án tuy đi vào hoạt động giai đoạn đầu nhưng vận hành chưa ổn định đã làm thiếu hụt nguồn điện cho sản xuất và đời sống.
Xung quanh vấn đề quy hoạch thủy điện nhỏ và những tác động của công trình, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cho biết toàn quốc có 230 dự án thủy điện nhỏ được quy hoạch với tổng công suất 1.520 MW nhưng đến nay mới triển khai được 90 dự án với tổng công suất khoảng 500 MW.
Vừa qua, Bộ đã thu hồi 38 dự án ở các tỉnh miền Trung. Trong thời gian tới, Bộ tiếp tục rà soát quy hoạch về điện nói chung, trong đó có quy hoạch thủy điện nhỏ.
Những dự án không tham gia nhiều vào phát triển kinh tế xã hội của địa phương, lợi ích kinh tế nhỏ mà có nhiều ảnh hưởng đến môi trường hoặc không phù hợp với quy hoạch sẽ tiếp tục bị thu hồi.
Cũng liên quan đến vấn đề thủy điện, trả lời chất vấn của các đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương (Ninh Thuận), Vũ Quang Hải (Hưng Yên), Nguyễn Văn Nhượng (Quảng Bình) về việc xả lũ của các hồ thủy điện gây thiệt hại cho phía hạ du, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cho biết khu vực Tây Nguyên và miền Trung do đặc điểm sông ngòi có độ dốc lớn, chiều dài ngắn, mùa khô rất cạn kiệt, mùa mưa nước lên nhanh nên phần nhiều các dự án thủy điện nhỏ ở khu vực này không có chức năng điều tiết lũ.
Song, qua quy hoạch, Bộ Công Thương phối hợp với các địa phương đã rà soát lại và bổ sung nhiệm vụ tham gia một phần điều tiết lũ cho một số dự án như thủy điện A Vương, thủy điện sông Ba Hạ...
Thực hiện yêu cầu của Thủ tướng, Bộ đã xây dựng các quy hoạch vận hành liên hồ chứa. Các quy trình vận hành liên hồ chứa của các thủy điện đều được yêu cầu thực hiện theo các nguyên tắc an toàn tuyệt đối cho công trình khi có lũ, tham gia vào việc giảm và cắt lũ cho vùng hạ du khi cần thiết, tiếp đó mới đến yêu cầu phát điện.
Tuy nhiên, vừa qua một số dự án thủy điện làm chưa đúng quy trình được phê duyệt, Bộ đã yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam kiểm tra và xác định nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan quản lý, tùy theo mức độ sai phạm sẽ kiên quyết xử lý theo quy định hiện hành.
Nếu các công trình thủy điện nhỏ tuân thủ đúng quy định về quy trình điều tiết hồ chứa, tăng cường công tác kiểm tra thì sẽ hạn chế được tối đa các thiệt hại có thể xảy ra, Bộ trưởng khẳng định.
Về giải pháp huy động vốn cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng khẳng định dù có tái cơ cấu thế nào đi nữa thì Tập đoàn này vẫn là đơn vị chủ lực, việc thu xếp vốn như thế nào, bản thân ngành điện bằng các nỗ lực và khả năng của mình phải tự thu xếp các nguồn vốn. Muốn có được nguồn vốn này thì bản thân ngành điện phải có tích lũy thông qua cơ chế giá điện. Chính phủ cũng đã chỉ đạo và đàm phán với một số nhà tài trợ nước ngoài để thu hút vốn.
Làm rõ thêm, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc cho rằng quy hoạch phát triển thủy điện là phù hợp, bản quy hoạch Tổng sơ đồ điện 6 là đầy đủ cả phát triển nhiệt điện, thủy điện. Nếu thực hiện thực hiện đúng Tổng sơ đồ 6 thì không thể thiếu điện. Các dự án nhiệt điện đều chậm tiến độ và có vấn đề về kỹ thuật.
Qua kiểm tra của Bộ đối với một số dự án nhiệt điện thì đều có vấn đề kỹ thuật, khi đưa vào vận hành đều bị trục trặc, chậm tiến độ nhiều. Cái chậm này do chính năng lực nhà thầu, việc chọn nhà thầu chưa hợp lý, năng lực của chủ đầu tư trong vấn đề chọn nhà thầu chưa tốt.
Nhận trách nhiệm về tình hình thiếu điện với Quốc hội và cử tri, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải cho rằng nếu ta thực hiện đúng quy hoạch sơ đồ điện 6 thì đã không xảy ra tình trạng thiếu điện. Quy hoạch này đưa ra lượng nhà máy điện hết sức lớn, cần đầu tư khoảng 3.000MW một năm với tổng vốn đầu tư 6 tỷ USD/năm, chiếm trên 10% tổng mức đầu tư toàn xã hội.
Mặc dù Chính phủ thường xuyên điều hành để đảm bảo nguồn vốn khởi công dự án nhưng việc việc thu hút vốn hết sức khó khăn, chủ yếu huy động từ trong nước. Chính vì vậy, đến hết năm 2010 việc thực hiện Tổng sơ đồ 6 về nguồn điện khả năng chỉ đạt 74% và về lưới điện khoảng 61%, chưa đạt được kế hoạch, quy hoạch đã đề ra.
Bên cạnh đó, việc phần lớn các công trình nguồn và lưới điện đều vướng khâu giải phóng mặt bằng dẫn đến chậm tiến độ; giá điện của Việt Nam nằm trong nhóm các nước có giá thấp làm cho việc huy động vốn cho các công trình, đặc biệt là các công trình của tư nhân không hấp dẫn nên không thu hút được; năng lực của chủ đầu tư và các nhà thầu thấp; ý thức tiết kiệm điện chưa tốt và trình độ công nghệ sử dụng điện lạc hậu cũng là những bất cập hiện nay.
Để đảm bảo đủ điện, theo Phó Thủ tướng, trước hết phải tập trung tháo gỡ vướng mắc của 35 công trình đang thi công bị chậm tiến độ, thúc đẩy các dự án thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài cho phát triển điện trong đó có cơ chế về giá; chấn chỉnh các chủ đầu tư, các nhà thầu trong việc thực hiện hợp đồng, bảo đảm tiến độ, chất lượng dự án.
Cùng với đó, thực hiện tuyên truyền sử dụng điện và năng lượng tiết kiệm hiệu quả, có cơ chế bắt buộc dán nhãn các thiết bị sử dụng điện và quy định hiệu suất thiết bị sử dụng điện, không cho nhập sản xuất các thiết bị sử dụng điện cho sản xuất mà không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp.
Theo Phó Thủ tướng, thực hiện tái cơ cấu ngành điện, cuối năm nay, Chính phủ sẽ ban hành giải pháp và đến năm 2011 sẽ thực hiện thị trường điện cạnh tranh, sẽ tách nhà máy điện ra khỏi Tập đoàn Điện lực Việt Nam, chỉ để lại một số nhà máy điện chiến lược, phần truyền tải, phân phối vẫn do tập đoàn thực hiện ở giai đoạn đầu; đồng thời chuẩn bị thực hiện đề án giá điện theo cơ chế thị trường.
Nhiều biện pháp nhằm giảm nhập siêu và hạn chế tăng giá các mặt hàng thiết yếu
Đại biểu Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng), Phạm Thị Loan (Hà Nội), Trần Du Lịch (Thành phố Hồ Chí Minh), Mai Thị Ánh Tuyết (An Giang) đặt câu hỏi về tình trạng giá các mặt hàng thiết yếu ngày một tăng cao ảnh hưởng đến doanh nghiệp và người dân, đặc biệt là những người có thu nhập thấp; về tình trạng nhập siêu và yêu cầu Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng cho biết các giải pháp của Bộ trong thời gian tới để khắc phục tình trạng trên.
Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cho biết năm 2010 là năm đầu tiên Việt Nam sẽ có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn nhập khẩu trong đó xuất khẩu đạt 23% và nhập khẩu đạt 19%.
Tuy tình hình xuất khẩu năm 2010 đã được cải thiện nhưng nếu đánh giá tổng thể thì nhập khẩu vẫn nhiều hơn xuất khẩu. Nhập siêu vẫn là thách thức với nền kinh tế nước ta, gây ảnh hưởng đến cán cân thương mại, kinh tế vĩ mô cũng như chỉ số giá tiêu dùng trong nước...
Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt nhằm tăng nhập khẩu, giảm nhập siêu và đã thu được những kết quả đáng mừng, nhập siêu đã giảm từ 30% so với kim ngạch xuất khẩu của năm 2008 xuống còn khoảng 17% của năm 2010.
Tuy nhiên, Việt Nam đang trong quá trình đầu tư phát triển, phần nhiều máy móc thiết bị, nguyên liệu... vẫn phải nhập khẩu và tỷ lệ này chiếm phần lớn trong kim ngạch nhập khẩu.
Chúng ta cũng chỉ nhập khẩu chưa đến 7% hàng tiêu dùng như ôtô 4 chỗ, hóa mỹ phẩm...
Theo Bộ trưởng, lý do trong thời gian tới vẫn phải duy trì nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu là do công nghiệp phụ trợ trong nước, tuy đã được quan tâm nhưng vẫn còn nhiều hạn chế; giá cả nhiều mặt hàng tăng cao, tốc độ tăng giá hàng xuất khẩu của Việt Nam không bằng hàng máy móc phải nhập khẩu; người tiêu dùng vẫn có tư tưởng dùng hàng ngoại...
Hiện tại, Bộ đã triển khai nhiều biện pháp nhằm giảm tình trạng nhập siêu, phấn đấu tới năm 2015 giảm tỷ lệ nhập siêu trên kim ngạch xuất khẩu xuống còn 14%.
Đại biểu Phạm Thị Loan (Hà Nội) đề nghị Bộ trưởng cho biết các biện pháp cụ thể nhằm giảm nhập siêu nói chung và giảm nhập siêu từ Trung Quốc để cân bằng cán cân thương mại giữa hai nước.
Theo Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ đã cùng các bộ, ngành triển khai nhiều biện pháp tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc, qua đó góp phần giảm dần nhập khẩu, cân bằng cán cân thương mại về nhập khẩu xuất khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Đã có nhiều biện pháp được thực hiện, trong đó đã bàn và chuẩn bị ký kết Quy hoạch phát triển thương mại 5 năm giữa hai nước, trong đó có nhiều biện pháp cụ thể để thúc đẩy thương mại giữa hai bên theo hướng cải thiện tình trạng nhập siêu của Việt Nam.
Bộ đã ký kết thỏa thuận với Bộ Thương mại Trung Quốc, theo đó Trung Quốc sẽ tăng cường nhập khẩu các hàng hóa của Việt Nam mà Trung Quốc có nhu cầu, gồm 18 nhóm mặt hàng.
Phía Trung Quốc chỉ đạo các doanh nghiệp, các địa phương tính toán để nhập khẩu nhiều hơn 18 nhóm mặt hàng, đồng thời phía Trung Quốc cũng thống nhất tạo điều kiện để Việt Nam tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường Trung Quốc thông qua các hội chợ, triển lãm...
Chưa đồng tình với câu trả lời của Bộ trưởng, đại biểu Trần Ngọc Vinh tiếp tục chất vấn về việc giá tăng cao ảnh hưởng đến doanh nghiệp và người dân.
Bộ trưởng khẳng định Chính phủ yêu cầu trong bất cứ tình huống nào cũng phải đảm bảo cân đối cung cầu các hàng hóa thiết yếu. Và thực tế đã cho thấy, trong giai đoạn khó khăn nhất của nền kinh tế, chúng ta vẫn cơ bản đảm bảo việc cung cấp hàng hóa thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân.
Hiện tại, chúng ta đang giữ được cân đối cung cầu, Bộ sẽ tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa để góp phần bình ổn giá thông qua các biện pháp huy động năng lực sản xuất trong nước, đảm bảo cung cầu, tăng khả năng cạnh tranh, tăng cường kiểm tra, kiểm soát xử lý sai phạm trong lĩnh vực giá...
Bộ trưởng cũng lý giải nguyên nhân giá tăng đột biến là do kinh tế Việt Nam là nền kinh tế mở, giá cả trong nước liên quan nhiều đến giá cả bên ngoài, nguyên nhân thiên tai, dịch bệnh, kinh tế Việt Nam đang trên đà phục hồi, sức mua lớn có tác động đến giá cả, sản xuất năng xuất thấp, chi phí cao, giá thành cao.
Ngoài ra, năm 2010 là năm có nhiều ngày lễ lớn, sinh hoạt đi lại của người dân nhiều dẫn đến chi phí tăng...
Cũng trong phiên trả lời chất vấn của mình, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng đã trả lời các vấn đề về tình trạng thiếu phân bón, phân bón giả, việc xuất khẩu phân bón trong khi trong nước thiếu và các chế tài xử lý các sai phạm...
Bộ trưởng khẳng định theo đúng tiến độ, đến năm 2012 sẽ xây xong một số nhà máy phân đạm và đến năm 2015 sẽ đủ cung ứng phân bón sản xuất trong nước./.
Thủy-Vân (TTXVN/Vietnam+)