Bệnh sốt xuất huyết do virus Marburg nguy hiểm như thế nào?

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh do virus Marburg là một dạng bệnh sốt xuất huyết có tỷ lệ tử vong lên tới 88%; các triệu chứng mắc bệnh gồm sốt, choáng váng, nôn dịch lẫn máu và tiêu chảy.
Bệnh sốt xuất huyết do virus Marburg nguy hiểm như thế nào? ảnh 1Bệnh nhân nhiễm virus Marburg được điều trị tại bệnh viện ở tỉnh Uige, Angola. (Nguồn: AFP/TTXVN)

Ngày 29/3, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết đã tiếp nhận thông tin về các ca bệnh Marburg mới ở Guinea Xích đạo và kêu gọi chính phủ nước này gửi báo cáo chính thức.

Theo Tổng Giám đốc WHO Tedros Adhanom Ghebreyesus, số ca bệnh Marburg được báo cáo chính thức tại Guinea Xích đạo là 9 ca, với 7 ca tử vong tại 3 tỉnh.

Theo WHO, bệnh do virus Marburg là một dạng bệnh sốt xuất huyết có tỷ lệ tử vong lên tới 88%. Các triệu chứng mắc bệnh gồm sốt, choáng váng, nôn dịch lẫn máu và tiêu chảy. Hiện chưa có vaccine phòng hay thuốc chữa được cấp phép sử dụng với bệnh này.

Vật chủ chứa virus Marburg là dơi ăn quả châu Phi, Rousettus aegyptiacus. Bệnh do virus Marburg là một bệnh gây xuất huyết hiếm gặp nhưng nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến cả người và động vật linh trưởng.

Marburg lây truyền từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp (qua da hoặc niêm mạc bị rách) với máu, dịch tiết, cơ quan hoặc các chất dịch cơ thể khác của người bị nhiễm bệnh, và với các bề mặt và vật liệu (ví dụ: giường, quần áo) bị nhiễm các chất dịch này.

Nhân viên y tế trước đây đã bị nhiễm bệnh trong khi điều trị cho bệnh nhân nghi ngờ hoặc đã xác nhận sốt xuất huyết do virus Marburg (MVD). Các nghi lễ chôn cất có tiếp xúc trực tiếp với thi thể của người quá cố cũng có thể góp phần vào việc lây truyền bệnh Marburg. Thời gian ủ bệnh thay đổi từ hai đến 21 ngày.

Bệnh do virus Marburg gây ra bắt đầu đột ngột với sốt cao, nhức đầu dữ dội và khó chịu nghiêm trọng. Tiêu chảy nặng, đau bụng và chuột rút, buồn nôn và nôn có thể bắt đầu vào ngày thứ ba.

Các biểu hiện xuất huyết nghiêm trọng xuất hiện từ năm đến bảy ngày kể từ khi các triệu chứng khởi phát và các trường hợp tử vong thường có một số dạng chảy máu, thường là từ nhiều vùng. Trong những trường hợp gây tử vong, tử vong thường xảy ra nhất trong khoảng từ tám đến chín ngày sau khi khởi phát triệu chứng, thường xảy ra trước khi mất máu nghiêm trọng và sốc.

[Thành phố Hồ Chí Minh nâng cao cảnh giác với bệnh do virus Marburg]

Trong giai đoạn đầu của bệnh, chẩn đoán lâm sàng MVD rất khó phân biệt với nhiều bệnh sốt nhiệt đới khác do các triệu chứng lâm sàng giống nhau. Các bệnh sốt xuất huyết do virus khác cần được loại trừ, bao gồm bệnh do virus Ebola, cũng như bệnh sốt rét, sốt thương hàn, bệnh leptospirosis, nhiễm trùng do rickettsia và bệnh dịch hạch.

Phòng thí nghiệm có thể xác nhận bằng các xét nghiệm khác nhau, chẳng hạn như xét nghiệm miễn dịch hấp thụ liên kết với enzyme bắt kháng thể (ELISA), xét nghiệm phát hiện bắt giữ kháng nguyên, xét nghiệm trung hòa huyết thanh, xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR), kính hiển vi điện tử và virus phân lập bằng nuôi cấy tế bào.

Mặc dù không có vaccine hoặc phương pháp điều trị kháng virus nào được chấp thuận để điều trị virus nhưng chăm sóc hỗ trợ - bù nước bằng chất lỏng uống hoặc truyền tĩnh mạch - và điều trị các triệu chứng cụ thể giúp cải thiện khả năng sống sót. Một loạt các phương pháp điều trị tiềm năng đang được đánh giá, bao gồm các sản phẩm máu, liệu pháp miễn dịch và liệu pháp dùng thuốc.

Việc kiểm soát bùng phát dịch bệnh do virus Marburg dựa vào việc sử dụng một loạt các biện pháp can thiệp, cụ thể là quản lý ca bệnh, giám sát bao gồm truy tìm người tiếp xúc.

Đánh giá rủi ro của WHO về dịch bệnh do virus Marburg

WHO nhận định việc kiểm soát bùng phát dịch bệnh do virus Marburg dựa vào việc sử dụng một loạt các biện pháp can thiệp, cụ thể là quản lý ca bệnh, giám sát bao gồm truy tìm người tiếp xúc, dịch vụ xét nghiệm tốt, phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm.

Sự tham gia của cộng đồng là chìa khóa để kiểm soát thành công các đợt bùng phát MVD. Nâng cao nhận thức về các yếu tố nguy cơ lây nhiễm Marburg và các biện pháp bảo vệ mà các cá nhân có thể thực hiện là cách hiệu quả để giảm sự lây truyền sang người.

Các cộng đồng bị ảnh hưởng bởi Marburg nên nỗ lực để đảm bảo rằng người dân được thông tin đầy đủ, cả về bản chất của dịch bệnh và về các biện pháp ngăn chặn ổ dịch cần thiết.

Các biện pháp ngăn chặn bùng phát bao gồm chôn cất nhanh chóng, an toàn và đàng hoàng những trường hợp đã tử vong, xác định những người có thể đã tiếp xúc với người bị nhiễm Marburg và theo dõi sức khỏe của họ trong 21 ngày, cách ly và chăm sóc những bệnh nhân đã được xác nhận và duy trì vệ sinh tốt và sạch sẽ môi trường.

Nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân mắc hoặc nghi ngờ mắc MVD nên áp dụng các biện pháp kiểm soát lây nhiễm bổ sung bên cạnh các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn để tránh tiếp xúc với máu và dịch cơ thể của bệnh nhân cũng như với các bề mặt và đồ vật bị nhiễm bẩn.

WHO khuyến cáo nam giới sống sót sau MVD thực hành tình dục và vệ sinh an toàn hơn trong 12 tháng kể từ khi xuất hiện các triệu chứng hoặc cho đến khi tinh dịch của họ hai lần xét nghiệm âm tính với virus Marburg. Nên tránh tiếp xúc với chất dịch cơ thể và nên rửa bằng xà phòng và nước. WHO không khuyến nghị cách ly bệnh nhân nam hoặc nữ đang hồi phục có xét nghiệm máu âm tính với virus Marburg.

Tuy nhiên, WHO từng khuyến cáo không nên hạn chế đi lại và/hoặc buôn bán tới Guinea Xích đạo dựa trên thông tin hiện có về đợt bùng phát hiện tại./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục