Trong chiến công "huyền thoại" của những chuyến tàu "không số" được thành lập ngày 23/10/1961, không thể không nhắc đến bến Lộ Diêu, xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn (Bình Định), địa điểm đã vinh dự đón tàu “không số” vào rạng sáng ngày 1/11/1964, với chuyến hàng đầu tiên chở trên 30 tấn vũ khí chi viện cho chiến trường khu 5 một cách an toàn.
Khi được hỏi về hành trình của chuyến đi này, Trung tá Lê Văn Nốt, cựu chiến binh, nguyên là chiến sĩ làm nhiệm vụ trên chuyến tàu "không số" cập bến Lộ Diêu thời ấy cho biết, thực hiện Nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 2 và Chỉ thị của Bộ Chính trị - Quân ủy Trung ương quyết định mở đường vận tải trên biển tháng 7/1959. Vì vậy đến đầu năm 1960, cấp trên đã tăng cường đồng chí Trần Phi Khanh, quê ở Hoài Ân, Bình Định làm cán bộ tham mưu Tỉnh đội, thực chất là lo bến bãi cho “tàu không số” vào Bình Định.
Tỉnh ủy và Tỉnh đội Bình Định đã bổ sung đồng chí Khanh vào Ban lãnh đạo phía Nam huyện Hoài Nhơn và các xã Đông Bắc huyện Phù Mỹ, với tư cách là cán bộ quân sự, tham gia công tác phát động phong trào quần chúng, xây dựng cơ sở và lực lượng du kích.
Sau một thời gian thực tế, đồng chí Khanh xét thấy chỉ có bãi ngang thôn Lộ Diêu, xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn là hội đủ các điều kiện cho "tàu không số" cập bến, bởi Lộ Diêu có địa thế biệt lập với 1 mặt biển và 3 mặt là núi, ở 2 đầu thôn có đèo Lộ Diêu (xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn) và phía Nam là đèo Hà Ra (thuộc xã Mỹ Đức, huyện Phù Mỹ), lúc bấy giờ là vùng giải phóng, có tổ chức Đảng, các đoàn thể quần chúng cách mạng và nơi có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường.
Mặt khác, theo yêu cầu của chiến trường và sự chỉ đạo của Trung ương, tháng 7/1963, Tỉnh ủy Bình Định đã thành lập đoàn công tác đặc biệt ra miền Bắc gồm các đảng viên: Lê Văn Nốt, thôn Lộ Diêu; Phan Văn Kiệm và Phan Văn Khương, thôn Phú Thứ, xã Mỹ Đức và đồng chí Trần Phi Khanh làm Trưởng đoàn để báo cáo cho Trung ương về công tác chuẩn bị của tỉnh Bình Định.
Sau 4 tháng vượt rừng núi Trường Sơn, cuối cùng đoàn đã về đến Hà Nội, làm việc với Cục tác chiến (Bộ Tổng tham mưu) và Đoàn 125 Hải quân. Đặc biệt, đoàn đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp. Sau khi nghe báo cáo, Trung ương đã chỉ thị cho tỉnh Bình Định thành lập bộ phận chuyên trách (gọi là HB15) chuẩn bị các mặt để đón tàu vào.
Tỉnh ủy Bình Định đã nhanh chóng thành lập HB15, do đồng chí Trương Trọng Hạng, Tỉnh đội phó - Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy và thành lập 2 đại đội được chọn lựa kỹ càng và huấn luyện về chính trị, kỹ thuật quân sự và trang bị đài 15 W để thường xuyên liên lạc với cấp trên.
Còn Đoàn 125 Hải quân đã quyết định cử tàu 401 lên đường vào Bình Định. Tàu 401 đóng theo dạng tàu cá miền Nam, trọng tải 35 tấn, tàu có 12 người, thuyền trưởng là đồng chí Phạm Vạn (quê ở Quảng Ngãi); 2 thuyền phó là các đồng chí Trần Phấn và Trần Phi Khanh (quê Bình Định); Chính trị viên là đồng chí Đặng Văn Thanh(quê Bình Thuận) cùng 8 thuyền viên khác là Nguyễn Văn Hiệu, Phạm Trường Nam, Lê Văn Nốt, Lê Quang Hiến, Phạm Văn Dợn, Trần Kim Hiền, Ngô Dần và Đặng Hồng Hoàng.
Ngày 21/9/1964, lễ tiễn các thủy thủ tàu 401 về Bình Định đã được tổ chức tại cảng Bích Động (Hải Phòng) và ngày hôm sau, tàu chở trên 30 tấn vũ khí rời bến. Ông Nốt kể lại, ngày hôm đó gió Đông Bắc tràn về mạnh, khi tàu ra đến đảo Long Châu gió lên đến cấp 7, sóng ngày càng to nên buộc tàu phải quay trở lại bến. Đến ngày 10/10, tàu lại xuất phát lần thứ 2, nhưng rồi lại gặp bão, tàu đành trú tạm vào đảo Hải Nam (Trung Quốc).
Đến ngày 25/10/1964, tàu lại nhổ neo, tiếp tục hành trình. Khi đến hải phận vùng biển Quốc tế, hạm đội 7 của Mỹ đã phát hiện có tàu lạ và cho 2 chiếc máy bay theo dõi nhưng do tàu ngụy trang tốt nên địch chưa phát hiện tàu của ta, tuy nhiên chúng vẫn nghi ngờ, cho 2 tàu hải quân đóng tại Đà Nẵng bám sát theo.
Anh em trên tàu đã xác định nếu bị phát hiện thì sẵn sàng chiến đấu hy sinh và hủy tàu cùng vũ khí trước khi bọn chúng biết. Nhưng rất may, đến ngày 31/10, khi tàu gần đến hải phận Bình Định, trời lại kéo mây mưa, nổi gió và sóng lớn nên tàu địch buộc phải rút lui. Tranh thủ thời cơ, tàu 401 chuyển ngang hướng vào Lộ Diêu, nhưng gió quá to nên thuyền đã bị trôi dạt vào vùng biển Phù Mỹ vào lúc 3 giờ sáng.
Chỉ huy tàu đã cho tàu chạy ngược về Lộ Diêu vào lúc 4 giờ ngày 1/11/1964, nhưng trời vẫn tiếp tục mưa và sóng lớn. Cùng lúc đó tín hiệu trên bờ đã liên lạc với tàu và tranh thủ thời gian với phương án huy động lực lượng vận chuyển vũ khí trên tàu xuống ghe nhỏ và chở lên địa điểm chôn bí mật; mọi công việc đã hoàn tất trước khi trời sáng. Ban chỉ huy hạ lệnh đốt tàu để xóa tung tích. Tàu đã cháy trong suốt 3 ngày đêm. Người dân loan báo là tàu cá bị bão đánh vào bờ và bị bốc cháy để che đậy máy bay địch đi tuần tra ven bờ biển.
"Tàu Không số" cập bến Lộ Diêu an toàn đã đáp ứng kịp thời vũ khí đạn dược cho các Trung đoàn Quân khu 5 và sau này là Sư đoàn 3 Sao Vàng để chiến đấu và giành những chiến công vang dội trong chiến dịch Đông - Xuân 1964-1965 như An Lão, Đèo Nhông, Đồi Mười, Dương Liễu và Gò Bồi..., góp phần hoàn thành sứ mệnh vào chiến công lẫy lừng của huyền thoại “Đường Hồ Chí Minh trên biển.”
Ngày nay, trên bến Lộ Diêu, một bia tưởng niệm đã được dựng lên để ghi lại dấu ấn tự hào và góp phần giáo dục cho các thế hệ con cháu hôm nay và mai sau phải sống, học tập, công tác và noi theo tấm gương quả cảm của lớp cha anh đã làm nên những câu chuyện “huyền thoại” trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước./.
Khi được hỏi về hành trình của chuyến đi này, Trung tá Lê Văn Nốt, cựu chiến binh, nguyên là chiến sĩ làm nhiệm vụ trên chuyến tàu "không số" cập bến Lộ Diêu thời ấy cho biết, thực hiện Nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 2 và Chỉ thị của Bộ Chính trị - Quân ủy Trung ương quyết định mở đường vận tải trên biển tháng 7/1959. Vì vậy đến đầu năm 1960, cấp trên đã tăng cường đồng chí Trần Phi Khanh, quê ở Hoài Ân, Bình Định làm cán bộ tham mưu Tỉnh đội, thực chất là lo bến bãi cho “tàu không số” vào Bình Định.
Tỉnh ủy và Tỉnh đội Bình Định đã bổ sung đồng chí Khanh vào Ban lãnh đạo phía Nam huyện Hoài Nhơn và các xã Đông Bắc huyện Phù Mỹ, với tư cách là cán bộ quân sự, tham gia công tác phát động phong trào quần chúng, xây dựng cơ sở và lực lượng du kích.
Sau một thời gian thực tế, đồng chí Khanh xét thấy chỉ có bãi ngang thôn Lộ Diêu, xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn là hội đủ các điều kiện cho "tàu không số" cập bến, bởi Lộ Diêu có địa thế biệt lập với 1 mặt biển và 3 mặt là núi, ở 2 đầu thôn có đèo Lộ Diêu (xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn) và phía Nam là đèo Hà Ra (thuộc xã Mỹ Đức, huyện Phù Mỹ), lúc bấy giờ là vùng giải phóng, có tổ chức Đảng, các đoàn thể quần chúng cách mạng và nơi có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường.
Mặt khác, theo yêu cầu của chiến trường và sự chỉ đạo của Trung ương, tháng 7/1963, Tỉnh ủy Bình Định đã thành lập đoàn công tác đặc biệt ra miền Bắc gồm các đảng viên: Lê Văn Nốt, thôn Lộ Diêu; Phan Văn Kiệm và Phan Văn Khương, thôn Phú Thứ, xã Mỹ Đức và đồng chí Trần Phi Khanh làm Trưởng đoàn để báo cáo cho Trung ương về công tác chuẩn bị của tỉnh Bình Định.
Sau 4 tháng vượt rừng núi Trường Sơn, cuối cùng đoàn đã về đến Hà Nội, làm việc với Cục tác chiến (Bộ Tổng tham mưu) và Đoàn 125 Hải quân. Đặc biệt, đoàn đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp. Sau khi nghe báo cáo, Trung ương đã chỉ thị cho tỉnh Bình Định thành lập bộ phận chuyên trách (gọi là HB15) chuẩn bị các mặt để đón tàu vào.
Tỉnh ủy Bình Định đã nhanh chóng thành lập HB15, do đồng chí Trương Trọng Hạng, Tỉnh đội phó - Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy và thành lập 2 đại đội được chọn lựa kỹ càng và huấn luyện về chính trị, kỹ thuật quân sự và trang bị đài 15 W để thường xuyên liên lạc với cấp trên.
Còn Đoàn 125 Hải quân đã quyết định cử tàu 401 lên đường vào Bình Định. Tàu 401 đóng theo dạng tàu cá miền Nam, trọng tải 35 tấn, tàu có 12 người, thuyền trưởng là đồng chí Phạm Vạn (quê ở Quảng Ngãi); 2 thuyền phó là các đồng chí Trần Phấn và Trần Phi Khanh (quê Bình Định); Chính trị viên là đồng chí Đặng Văn Thanh(quê Bình Thuận) cùng 8 thuyền viên khác là Nguyễn Văn Hiệu, Phạm Trường Nam, Lê Văn Nốt, Lê Quang Hiến, Phạm Văn Dợn, Trần Kim Hiền, Ngô Dần và Đặng Hồng Hoàng.
Ngày 21/9/1964, lễ tiễn các thủy thủ tàu 401 về Bình Định đã được tổ chức tại cảng Bích Động (Hải Phòng) và ngày hôm sau, tàu chở trên 30 tấn vũ khí rời bến. Ông Nốt kể lại, ngày hôm đó gió Đông Bắc tràn về mạnh, khi tàu ra đến đảo Long Châu gió lên đến cấp 7, sóng ngày càng to nên buộc tàu phải quay trở lại bến. Đến ngày 10/10, tàu lại xuất phát lần thứ 2, nhưng rồi lại gặp bão, tàu đành trú tạm vào đảo Hải Nam (Trung Quốc).
Đến ngày 25/10/1964, tàu lại nhổ neo, tiếp tục hành trình. Khi đến hải phận vùng biển Quốc tế, hạm đội 7 của Mỹ đã phát hiện có tàu lạ và cho 2 chiếc máy bay theo dõi nhưng do tàu ngụy trang tốt nên địch chưa phát hiện tàu của ta, tuy nhiên chúng vẫn nghi ngờ, cho 2 tàu hải quân đóng tại Đà Nẵng bám sát theo.
Anh em trên tàu đã xác định nếu bị phát hiện thì sẵn sàng chiến đấu hy sinh và hủy tàu cùng vũ khí trước khi bọn chúng biết. Nhưng rất may, đến ngày 31/10, khi tàu gần đến hải phận Bình Định, trời lại kéo mây mưa, nổi gió và sóng lớn nên tàu địch buộc phải rút lui. Tranh thủ thời cơ, tàu 401 chuyển ngang hướng vào Lộ Diêu, nhưng gió quá to nên thuyền đã bị trôi dạt vào vùng biển Phù Mỹ vào lúc 3 giờ sáng.
Chỉ huy tàu đã cho tàu chạy ngược về Lộ Diêu vào lúc 4 giờ ngày 1/11/1964, nhưng trời vẫn tiếp tục mưa và sóng lớn. Cùng lúc đó tín hiệu trên bờ đã liên lạc với tàu và tranh thủ thời gian với phương án huy động lực lượng vận chuyển vũ khí trên tàu xuống ghe nhỏ và chở lên địa điểm chôn bí mật; mọi công việc đã hoàn tất trước khi trời sáng. Ban chỉ huy hạ lệnh đốt tàu để xóa tung tích. Tàu đã cháy trong suốt 3 ngày đêm. Người dân loan báo là tàu cá bị bão đánh vào bờ và bị bốc cháy để che đậy máy bay địch đi tuần tra ven bờ biển.
"Tàu Không số" cập bến Lộ Diêu an toàn đã đáp ứng kịp thời vũ khí đạn dược cho các Trung đoàn Quân khu 5 và sau này là Sư đoàn 3 Sao Vàng để chiến đấu và giành những chiến công vang dội trong chiến dịch Đông - Xuân 1964-1965 như An Lão, Đèo Nhông, Đồi Mười, Dương Liễu và Gò Bồi..., góp phần hoàn thành sứ mệnh vào chiến công lẫy lừng của huyền thoại “Đường Hồ Chí Minh trên biển.”
Ngày nay, trên bến Lộ Diêu, một bia tưởng niệm đã được dựng lên để ghi lại dấu ấn tự hào và góp phần giáo dục cho các thế hệ con cháu hôm nay và mai sau phải sống, học tập, công tác và noi theo tấm gương quả cảm của lớp cha anh đã làm nên những câu chuyện “huyền thoại” trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước./.
Viết Ý (TTXVN/Vietnam+)