Báo Nhật đăng bài vạch trần ý đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc

Báo Japan Times ngày 10/2 đã giành nửa trang 3 để đăng bài viết “Trung Quốc “thử nghiệm sân bay mới ở Trường Sa - giai đoạn mới của chiến dịch độc chiếm Biển Đông?” của tiến sỹ Trần Công Trực.
Hoạt động xây dựng trái phép của Trung Quốc trên đá Su bi, quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. (Nguồnh: SIA)

Báo Japan Times ngày 10/2 đã giành nửa trang 3 để đăng bài viết “Trung Quốc “thử nghiệm sân bay mới ở Trường Sa - Giai đoạn mới của chiến dịch độc chiếm Biển Đông?” của tiến sỹ Trần Công Trực.

Bài viết đã vạch trần ý đồ độc từng bước độc chiếm Biển Đông, đồng thời chỉ rõ hành động mới đây của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, đi ngược lại nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao Việt-Trung, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc và tinh thần của Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002.

VietnamPlus xin giới thiệu toàn văn bài viết:

“Thử nghiệm” sân bay mới ở Trường Sa - Giai đoạn mới nhằm độc chiến Biển Đông của Trung Quốc?

Ngay những ngày đầu năm 2016, Trung Quốc đã tiến hành bay thử nghiệm tại sân bay mới xây dựng trái phép ở đá Chữ Thập, Trường Sa. Ngay sau đó, Bộ ngoại giao Việt Nam đã trao công hàm phản đối Trung Quốc và Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nêu rõ hành động này của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay, không tái diễn hành động tương tự.

Tiếp đó, Mỹ, Philippines và Nhật Bản đều bày tỏ quan ngại sâu sắc đối với hành động trên của Trung Quốc.


Thực chất của việc thử nghiệm sân bay Chữ Thập:


1. Chuyến bay thử nghiệm này nhằm mục đích gì?

Trung Quốc phân bua rằng: “Chính phủ Trung Quốc tiến hành một chuyến bay thử nghiệm tới sân bay này bằng một máy bay dân sự nhằm kiểm tra xem cơ sở vật chất ở đây đã đáp ứng tiêu chuẩn hàng không dân dụng hay chưa?”

Tuy nhiên, sau những gì mà Trung Quốc đã thực hiện ở Biển Đông, nhất là những hoạt động lấn biển, biến bảy bãi, đá (chủ yếu là bãi cạn lúc chìm lúc nổi) thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam thành các đảo nhân tạo quy mô lớn và xây dựng ở Chữ Thập, Xubi và Vành Khăn 3 đường băng sân bay dài trên dưới 3.000m, cùng với những căn cứ quân sự chìm, nổi, khiến người ta không tin được vào những tuyên bố mỹ miều nói trên của Trung Quốc.

Điều đó càng khiến dư luận thêm một lần nữa khẳng định rằng Trung Quốc đang theo đuổi quyết tâm quân sự hóa Biển Đông, bất chấp mọi phản ứng, quan ngại của các nước trong khu vực và quốc tế. Bởi vì, chỉ bằng cách đó, Trung Quốc mới có thể khống chế, tiến tới độc chiếm Biển Đông, mà trước mắt là trực tiếp đe dọa đến an ninh, an toàn hàng hải, hàng không quốc tế đi qua Biển Đông.

Khi cầu hàng không từ Hải Nam, qua Hoàng Sa, xuống Trường Sa đi vào vận hành một các suôn sẻ, cùng với sự khởi động của sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21”... có thể thấy rằng đến lúc đó, Trung Quốc sẽ ra tay “làm mưa làm gió” ở Biển Đông theo đúng kịch bản, lớp lang mà họ đã vạch ra từ trước.


2. “Chuyến bay thử nghiệm” đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, đi ngược lại nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc và tinh thần của Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002. Tại sao?

Thứ nhất, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để biến không thành có, biến vùng biển, đảo không tranh chấp thành vùng biển đảo tranh chấp:

Sự thật lịch sử không thể dấu diếm được là từ thế kỷ 19 trở về trước, người Trung Hoa luôn coi biển và đại dương là hiểm họa cho sự tồn tại của họ, một phần vì họ không kiểm soát được, phần nữa vì hoạt động cướp biển luôn luôn đe dọa trong nhiều thế kỷ, tạo thành một mối lo lớn cho triều đình phong kiến Trung Quốc.

Nhiều chính sách ngăn cấm rất nghiệt ngã được đề ra làm kim chỉ nam cho việc giao lưu kinh tế, thương mại, văn hóa... Đã có những thời kỳ ai đặt chân xuống biển đã bị coi là đại tội, dân chúng bị bắt buộc di cư vào trong đất liền 40 dặm, dọc theo duyên hải từ nam chí Bắc không một bóng người.

Trên thực tế, sau cuộc chiến tranh Nha Phiến, mối đe dọa đến từ vùng ven biển mới làm thức tỉnh ý thức về biển của người Trung Quốc, hình thành một loạt ý tưởng về chiến lược biển.

Chính vì vậy, vào đầu thế kỷ 20, Trung Quốc mới bắt đầu thực hiện các bước tiến ra biển. Mở đầu là sự kiện năm 1909, Lý Chuẩn chỉ huy ba pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó đã vội vã rút lui.

Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận, chính quyền Trung Hoa Dân quốc đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm phía Đông Hoàng Sa. Tuy nhiên, với Hiệp định Sơ bộ Hồ Chủ tịch ký với Cộng hòa Pháp ngày 6/3/1946, Việt Nam vẫn nằm trong khối Liên hiệp Pháp nên Pháp vẫn thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống xâm phạm chủ quyền ở Hoàng Sa. Khi đó, những phản ứng mạnh mẽ của Pháp đối với sự chiếm đóng trái phép của quân đội Tưởng Giới Thạch ở Hoàng Sa và sự suy yếu trước các cuộc tấn công như vũ bão của quân đội Mao Trạch Đông ở trong nước, quân Trung Hoa Dân quốc phải rút khỏi đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa, kết thúc khoảng thời gian ngắn chiếm đóng trái phép ở quần đảo này.

Đến ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức trao lại cho Chính phủ Bảo Đại việc quản lý và bảo vệ Hoàng Sa. Lợi dụng thời khắc lịch sử rối ren của Việt Nam khi quân viễn chinh pháp rút khỏi lãnh thổ Việt Nam theo Hiệp định Geneva, Trung Quốc đã “lén lút” đưa quân chiếm đóng nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956.

Ngày 21/2/1959, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho một số lính đóng giả ngư dân bí mật đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hòa nhằm đánh chiếm nhóm đảo còn lại của quần đảo Hoàng Sa nhưng đã bị lực lượng của Việt Nam Cộng Hòa phát hiện. 82 binh lính Trung Quốc đóng giả ngư dân cùng với năm tàu đánh cá vũ trang đã bị bắt giữ và áp giải về giam tại Đà Nẵng, sau đó đã được trao trả cho Trung Quốc.

Năm 1970, vào lúc chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam đến giai đoạn tột đỉnh, lực lượng hải quân của Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa đã tiến hành một số hoạt động “ít kín đáo” trên nhóm đảo An Vĩnh - bộ phận phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Nhiều công trình hạ tầng quân sự đã được xây dựng vào năm 1971.

Từ ngày 17/1/1974, Trung Quốc mở cuộc tấn công vào lực lượng hải quân của Việt Nam Cộng Hòa với lực lượng hùng hậu gồm một hạm đội với tám tàu chiến, lục quân và không quân. Trước sự chuẩn bị kỹ lưỡng, lực lượng đông và mạnh của hải quân Trung Quốc, quân đội của Việt Nam Cộng Hòa đã không bảo vệ được phần còn lại là nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa.

Đầu tháng 3/1988, sau khi chiếm giữ trái phép năm bãi, đá thuộc quần đảo Trường Sa (bao gồm Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven và Xu Bi), Trung Quốc đã huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa gồm 9-12 tàu chiến, hai tàu hộ vệ pháo, hai tàu đổ bộ, ba tàu vận tải, tàu đo đạc và một pôngtông lớn để hỗ trợ đánh chiếm Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao. Trong đó, Gạc Ma là bãi đá san hô nằm ở phía Nam đảo Sinh Tồn và Sinh Tồn Đông mà Hải quân thuộc lực lượng Quân giải phóng nhân dân miền Nam Việt Nam đã tiếp quản vào hạ tuần tháng 4/1975.

Tới 14/3/1988, hải quân Trung Quốc với sức mạnh vượt trội đã chiếm được đá Gạc Ma, nhưng Việt Nam vẫn bảo vệ được Cô Lin và Len Đao. Năm 1995, TQ chiếm bãi Vành Khăn, lúc đó do Philippines quản lý.

Như vậy, Trung Quốc dùng vũ lực để xác lập chủ quyền là hoàn toàn bất hợp pháp, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế. Cụ thể, điều 2 khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc, “nghiêm cấm các quốc gia sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là cấm sử dụng vũ lực để xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác.”

Nội dung điều khoản này trong Hiến chương Liên hợp quốc là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đòi hỏi tất cả các nước thành viên của Liên hợp quốc, trong đó có Trung Quốc phải tuân thủ. Nguyên tắc này được phát triển và cụ thể hóa trong Nghị quyết 2625 ngày 24/10/1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, trong đó quy định: “Các quốc gia có nghĩa vụ không đe doạ hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác, hay (coi đe doạ hay sử dụng vũ lực) như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất đai và những vấn đề liên quan đến biên giới của các quốc gia... Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương Liên Hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe doạ hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp.”

Qua việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa ra, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này.

Rõ ràng, Trung Quốc đã “biến không thành có” từ đầu thế kỷ 20, bằng thủ đoạn lợi dụng những thời điểm lịch sử để tổ chức đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số thực thể địa lý thuộc quần đảo Trường Sa vào những năm 1956, 1974, 1988, 1995 và chiếm đóng trái phép đến ngày nay.

Không dừng lại ở đó, Trung Quốc còn thực hiện hàng loạt hoạt động sai trái khác và tổ chức các bước đi tiếp theo nhằm thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông, biến “vùng biển không tranh chấp thành vùng biển tranh chấp,” tìm mọi cách hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” bao lấy trên 90% diện tích Biển Đông.


Thứ hai, tổ chức lấn biển tạo đảo, biến các đá, các bãi lúc chìm lúc nổi thành những đảo lớn, xây dựng thành các “tàu sân bay bất khả chìm,” thành những căn cứ quân sự tấn công lợi hại...

Việc Trung Quốc tiếp tục có những bước đi, những toan tính nguy hiểm để hiện thực hóa tham vọng của mình đã đi ngược lại những gì Trung Quốc đã cam kết. Cụ thể, Trung Quốc đã và đang đẩy mạnh hoạt động xây dựng, biến các bãi, đá thành các đảo nhân tạo quy mô lớn và tiến hành xây dựng những căn cứ quân sự tấn công trên các đảo nhân tạo này.

Đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số bãi, đá ở quần đảo Trường Sa chỉ là bước đi đầu tiên trong chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông. Giành lấy sự kiểm soát ở các quần đảo chỉ là bước đệm để Trung Quốc vươn ra xâm chiếm các vùng biển ở Biển Đông bằng sức mạnh quân sự.

Chính vì vậy, sau khi đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số bãi, đá ở Trường Sa, Trung Quốc đã ra sức củng cố những thực thể này không chỉ với ý nghĩa “cải thiện” điều kiện sinh hoạt cho quân đội Trung Quốc đang đóng ở đây, mà sâu xa hơn cả là muốn biến những điểm thành những pháo đài quân sự, thậm chí có người còn ví đó là những “tàu sân bay” cố định để có thể tiến xa hơn nữa xuống phía Nam Biển Đông.

Tại quần đảo Hoàng Sa, đến nay Trung Quốc đã chiếm giữ trái phép hơn 40 năm và xây dựng tại đây hệ thống hạ tầng đồ sộ, quy mô lớn. Đáng kể nhất, vào ngày 7/10/2014 vừa qua, Trung Quốc đã tuyên bố xây xong sân bay dài 2km theo hướng Bắc-Nam trên đảo Phú Lâm, quần đảo Hoàng Sa.

Tại quần đảo Trường Sa, Trung Quốc đầu tư hàng tỷ USD để lấn biển và xây dựng ở các bãi, đá Chữ Thập, Châu Viên và đặc biệt là Gạc Ma thành những căn cứ quân sự. Việc làm đó của Trung Quốc đã được tính toán rất kỹ trong chiến lược độc chiếm Biển Đông mà họ đề ra.

Nếu như xem việc Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số bãi, đá ở quân đảo Trường Sa của Việt Nam là xâm lược bằng vũ lực thì hoạt động xây dựng tại các thực thể đó là mũi tấn công chủ yếu của cuộc “xâm lược mềm.” Từ đó, họ sẽ khai thác tài nguyên thiên nhiên bao gồm hải sản và dầu, khí, rồi tiến tới kiểm soát không phận và con đường hàng hải quốc tế đi qua Biển Đông. Bằng chứng là Trung Quốc đã làm điều tương tự trong vùng biển quần đảo Senkaku - (hay còn gọi là Điếu ngư) mà họ tranh chấp với Nhật Bản khi đưa ra cái gọi là “vùng nhận diện phòng không” (ADIZ).

Hoạt động xây dựng trên quy mô lớn ở các bãi, đá, biến những “bãi chìm” thành những căn cứ quân sự lớn, biến “bãi chìm” thành “đảo nổi,” thành “tàu sân bay cố định không bao giờ chìm” là việc làm vi phạm nghiêm trọng DOC.

Trung Quốc tự cho rằng “đường lưỡi bò” với hơn 90% diện tích Biển Đông và các quần đảo Tây Sa, Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ lấy lại vấn đề là sức mạnh quân sự của họ đến đâu. Điều này đã cho thấy tham vọng và quyết tâm của Trung Quốc đối với Biển Đông là không thay đổi. Bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp dư luận và mối quan hệ với các nước trong khu vực, Trung Quốc đang từng bước, từng bước hiện thực hóa mưu đồ độc chiếm Biển Đông.

Biển Đông đã trở thành điểm nóng không chỉ của khu vực mà còn của quốc tế. Chỉ mới đây thôi, với hoạt động trái phép của giàn khoan Hải Dương-981 và đội tàu hộ vệ trong khoảng thời gian 2/5 đến 15/7/2014 tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã làm tình hình chính trị ở Biển Đông hết sức căng thẳng.

Thậm chí, nhiều chính trị gia còn cho rằng việc Trung Quốc đặt giàn khoan trong vùng biển Việt Nam là chính sách “bên miệng hố chiến tranh.” Nếu so sánh hoạt động của giàn khoan Hải Dương-981 với hoạt động xây dựng căn cứ quân sự ở quần đảo Hoàng Sa và một số bãi, đá ở quần đảo Trường Sa thì mức độ nguy hiểm của việc họ đang làm cao hơn rất nhiều lần.

Việc lấn biển tạo đảo, xây dựng nói trên cho thấy Trung Quốc đang nhằm vào những mục tiêu sau đây:

Về pháp lý, củng cố trên thực tế “chủ quyền bất khả xâm phạm” mà Trung Quốc đã sử dung vũ lực để đánh chiếm từ năm 1988. Điều đáng lưu ý là Trung Quốc đang cố biến đá Chữ Thập, cũng như những thực thể địa lý khác mà họ đã đánh chiếm được, từ những bãi, đá thành đảo nổi, từ những bãi san hô không thích hợp cho đời sống con người thành những đảo “thích hợp cho con người sinh sống” và có “đời sống kinh tế riêng,” để tạo điều kiện cho việc đưa ra yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của “quần đảo Nam Sa.” Đây cũng là phương cách để “hợp thức hóa” đường biên giới “lưỡi bò” đang bị dư luận phản bác.

Về kinh tế, phải chăng đây chính là căn cứ hậu cần phục vụ cho những hoạt động khai thác nguồn tài nguyên sinh vật và không sinh vật tại khu vực phía Nam Biển Đông, nơi chứa đựng tài nguyên phong phú, đa dạng, mà Trung Quốc đang tìm cách xâm chiếm, đặc biệt là dầu khí, nguồn nhiên liệu mà Trung Quốc hy vọng có thể thỏa mãn “cơn khát” năng lượng của mình.

Khi Trung Quốc triển khai giai đoạn cắm các mũi khoan khai thác dầu khí trên thềm lục địa của Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Philippines... thì căn cứ hậu cần nơi đây sẽ là giải pháp kinh tế hiệu quả nhất. Đồng thời, nơi đây cũng là căn cứ hậu cần lý tưởng cho hoạt động đánh bắt cá của hàng ngàn tàu cá của Trung Quốc đang ồ ạt kéo xuống vơ vét nguồn hải sản phong phú và có giá trị ở phía Nam Biển Đông.

Về an ninh quốc phòng, cùng với các căn cứ quốc phòng được xây cất và đã đưa vào hoạt động ở quần đảo Hoàng Sa, căn cứ quân sự ở Gạc Ma, Chữ Thập, Xu bi, Vành Khăn sẽ tạo thành một hệ thống quân sự tấn công liên hoàn, là tiền đồn vững chắc của Trung Quốc ở Biển Đông... phục vụ cho mọi cuộc xâm lược được vạch ra để hiện thực hóa chiến lược độc chiếm Biển Đông của họ.

Việc xây dựng sân bay ở Chữ Thập, Xu bi, Vành Khăn là thách thức và cũng là hiểm họa đối với tất cả các quốc gia ven Biển Đông, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh, an toàn hàng hải quốc tế đi qua Biển Đông. Điều đáng lưu ý, những sân bay được khẩn trương xây cất ở đây còn nhằm phục vụ việc khống chế hoạt động hàng không quốc tế qua vùng trời Biển Đông. Phải chăng nó liên quan đến việc Trung Quốc sẽ công bố Vùng nhận diện phòng không mà họ đang có kế hoạch thực hiện trên bầu trời Biển Đông?

Trên phương diện thông tin truyền thông, Trung Quốc cố tình công bố những thông tin này vào thời điểm hiện nay còn nhằm thách thức dư luận, khẳng định quyết tâm chiến lược của mình trước dư luận trong nước và quốc tế, dọn đường dư luận cho những bước phiêu lưu mới của họ.

Đặc biệt, có thể đây cũng là phương cách Trung Quốc đang thực hiện chiến thuật đẩy mâu thuẩn trong nội bộ đang rất rối ren phức tạp ra bên ngoài.


Lịch sử chứng minh là không thể tin vào lời nói của Trung Quốc

Trước đây khi xâm lược, đánh chiếm sáu bãi, đá trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam năm 1988 hay chiếm bãi Vành Khăn năm 1995, Trung Quốc đều tuyên bố họ chỉ xây dựng điểm trú ẩn cho ngư dân tránh bão. Nhưng sau đó, họ đã xây dựng một loạt công sự, nhà nổi kiên cố, trang bị súng ống, biến những nơi này thành pháo đài lừng lững. Lần này họ cũng làm vậy, không có gì khác.

Đây thực sự là một bài toán đau đầu đối với các bên liên quan trực tiếp, nhất là đối với Việt Nam khi chủ quyền hợp pháp của chúng ta đang bị Trung Quốc xâm hại nghiêm trọng. Đây cũng là một thách thức Trung Quốc công khai đặt ra đối với dư luận, luật pháp và trật tự quốc tế, kể cả Mỹ. Nếu để Trung Quốc "xây dựng cơ sở hạ tầng" tại các thực thể họ đang chiếm đóng ở Trường Sa xong thì chả còn gì để nói, lúc đó đi qua vùng biển, vùng trời quốc tế ở Trường Sa mà "không xin phép Bắc Kinh" thì có lẽ chỉ còn nước đối đầu!

Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, biện pháp đấu tranh ngoại giao, pháp lý vẫn là thích hợp nhất so với biện pháp quân sự. Hòa bình luôn luôn là nguyện vọng tha thiết nhất của nhân loại. Có thể nói đây là thời khắc mà mọi ứng xử đều hết sức thận trọng, phải đặt lợi ích chung vì hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển của khu vực và thế giới lên trên hết.

Tuy nhiên, Việt Nam phải kiên quyết phản đối và đấu tranh đến cùng, không khoan nhượng nếu ai đó hành xử không theo đúng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, bất chấp các thỏa thuận đã đạt được, vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục