Ba bài học kinh nghiệm lớn của ngành tổ chức xây dựng Đảng

Theo Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư TW Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính, qua 90 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành, ngành Tổ chức xây dựng Đảng rút ra 3 bài học kinh nghiệm lớn.
Ông Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương phát biểu tại Lễ kỷ niệm. (Nguồn: Xaydungdang.org.vn)

Ngày 11/10, ông Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, đã có bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 90 năm ngành Tổ chức xây dựng Đảng (14/10/1930-14/10/2020).

Ông Phạm Minh Chính nêu rõ: Hòa chung vào niềm vui, không khí phấn khởi chào mừng thành công của đại hội đảng bộ các cấp, với khí thế mới, động lực mới, với lòng tự hào và niềm tin mạnh mẽ hướng tới thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; hôm nay, chúng ta long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày truyền thống ngành Tổ chức xây dựng Đảng. Đây là dịp để mỗi chúng ta từ trái tim mình mong muốn bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Cho phép chúng tôi được kính cẩn nghiêng mình trước anh linh những người cộng sản kiên trung đã trọn đời cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng cao cả của Đảng, của dân tộc; biết ơn những anh hùng liệt sỹ, trong đó có những cán bộ của ngành Tổ chức xây dựng Đảng đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.

Chúng ta khâm phục và ngưỡng mộ các thế hệ cha anh đi trước của ngành đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, luôn sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp xây dựng Đảng, vì sự trưởng thành, lớn mạnh của ngành; các anh, các chị không quản ngày đêm luôn chăm lo dìu dắt các thế hệ đàn em ngày càng trưởng thành về mọi mặt.

Cũng trong giờ phút lịch sử này, tất cả chúng ta hãy dành những tình cảm yêu thương, quý trọng nhất cho các tầng lớp nhân dân luôn đồng hành, che chở, đùm bọc, chăm lo cho các thế hệ những người làm công tác tổ chức xây dựng Đảng, nhất là trong chiến tranh và những thời khắc khó khăn nhất của cách mạng Việt Nam. Đây cũng là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống và tự hào viết tiếp những trang vàng lịch sử của ngành Tổ chức xây dựng Đảng.

Cách đây hơn 90 năm, ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trọng đại của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã quan tâm đến công tác tổ chức, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, quyết định sự vững mạnh của Đảng. Ngày 14/10/1930, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lâm thời lần thứ nhất tại Hương Cảng (tức Hồng Kông, Trung Quốc), Trung ương Đảng đã quyết định thành lập các bộ, trong đó có Bộ Tổ chức (tiền thân của Ban Tổ chức Trung ương ngày nay) nhằm đáp ứng yêu cầu về công tác tổ chức, cán bộ của Đảng.

Trong 90 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Tổ chức xây dựng Đảng luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là cơ quan tham mưu đắc lực, là chỗ dựa vững chắc của cấp ủy các cấp về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đội ngũ những người làm công tác tổ chức của Đảng qua các thời kỳ không ngừng nỗ lực phấn đấu, xây dựng nên truyền thống tốt đẹp của ngành, góp phần vào những chiến công to lớn của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Để ghi nhận truyền thống vẻ vang và những cống hiến của các thế hệ cán bộ làm công tác tổ chức, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã quyết định lấy ngày 14/10 hằng năm là Ngày truyền thống ngành Tổ chức xây dựng Đảng và cơ quan tổ chức cấp ủy các cấp.

Sau khi Bộ Tổ chức đi vào hoạt động, công tác tổ chức xây dựng Đảng đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, hệ thống các tổ chức đảng cơ sở phát triển ở nhiều tỉnh, thành trên cả nước, trong các nhà máy, hầm mỏ và đồn điền của thực dân Pháp. Tính đến tháng 4/1931, Đảng ta đã có 250 chi bộ với hơn 2.400 đảng viên hoạt động ở trong và ngoài nước. Cùng với công tác phát triển tổ chức đảng và đảng viên, vận động và tổ chức các phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, Bộ Tổ chức đã xây dựng được hệ thống liên lạc bí mật từ Trung ương tới các Xứ ủy và các tổ chức đảng cơ sở, giúp Trung ương Đảng nắm chắc tình hình trong nước và quốc tế, kịp thời chỉ đạo các phong trào cách mạng.

Tháng 5/1940, trong chiến tranh thế giới thứ hai, nước Pháp bị Đức chiếm đóng, vai trò của Chính phủ Pháp ở các nước thuộc địa suy yếu nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã liên tiếp triệu tập các hội nghị, trong đó có Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5/1941) đặc biệt quan trọng với việc thông qua chủ trương chuyển hướng chiến lược cách mạng trong nước và quyết định các vấn đề quan trọng khác nhằm chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.

Ngay sau Hội nghị, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, Bộ Tổ chức (lúc này đã được đổi tên là Bộ Tổ chức kiêm Giao thông) đã triển khai đồng thời một khối lượng lớn công việc. Từ tháng 5/1941 đến tháng 5/1945, cùng với việc tiếp tục mở rộng và phát triển tổ chức đảng trên các địa bàn, Bộ đã tham mưu Trung ương Đảng xây dựng tổ chức Mặt trận Việt Minh các cấp; nhanh chóng thành lập tổ chức đảng trong các đội vũ trang, xây dựng các chiến khu cách mạng…

[Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày truyền thống ngành tổ chức xây dựng Đảng]

Nhờ có tổ chức chặt chẽ, giao thông liên lạc bí mật, thông suốt, cùng với những chiến công đầu của lực lượng vũ trang cách mạng ở Bắc Sơn, Phai Khắt, Nà Ngần, Ba Tơ và nhiều địa phương khác, khí thế cách mạng cả nước đã nhanh chóng phát triển thành cao trào, lôi cuốn hàng triệu người dân tham gia.

Và khi thời cơ đến, trong những ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cao trào cách mạng trên cả nước hợp lại thành dòng thác với sức mạnh long trời lở đất, xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, lật đổ nhà nước bù nhìn do thực dân đế quốc lập nên, giành chính quyền về tay nhân dân.

Sau 15 năm thành lập, chỉ với hơn 5.000 đảng viên, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân đứng lên, tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám lịch sử, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Thắng lợi vĩ đại này là sự kết tinh của lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và sức mạnh của cả dân tộc Việt Nam, của đường lối chính trị đúng đắn, nghệ thuật chỉ đạo, tổ chức tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, trong đó có sự đóng góp quan trọng của ngành Tổ chức xây dựng Đảng.

Ngay sau ngày Tuyên bố độc lập (2/9/1945) và trong năm đầu tiên của nhà nước công-nông non trẻ, công tác tổ chức của Đảng phải đồng thời giải quyết nhiều nhiệm vụ lớn, trọng yếu và cấp bách. Đó là tham mưu Ban Chấp hành Trung ương về tổ chức và cán bộ của Quốc hội, Chính phủ và các đoàn thể; tìm kiếm, giác ngộ người tài trong các tầng lớp nhân dân để tham gia kiến quốc.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều nhân sỹ, trí thức tài năng, giàu lòng yêu nước ở trong và ngoài nước đã hăng hái tham gia vào bộ máy chính quyền các cấp. Ngành tổ chức đã làm tốt công tác tham mưu, góp phần nhanh chóng ổn định tình hình, giải quyết hiệu quả công tác đối nội, đối ngoại của Đảng và Chính phủ.

Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), công tác tổ chức ở các cấp được tiến hành với tinh thần hết sức khẩn trương, quyết liệt. Chỉ trong 6 tháng, từ tháng 12/1946 đến tháng 6/1947, tại các khu kháng chiến và vùng tự do, việc kiện toàn, thành lập mới các tổ chức đảng, chính quyền cơ sở, thành lập các ủy ban kháng chiến và bố trí cán bộ về cơ bản được hoàn thành.

Các cấp ủy đảng trực tiếp triển khai toàn diện các mặt công tác, vừa lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động chiến đấu, vừa triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thuế, nông nghiệp, cải cách ruộng đất. Công tác đào tạo cán bộ được tích cực triển khai, nhiều lớp tập huấn được mở ở Việt Bắc, Khu V, Nam Bộ đã kịp thời bổ sung cán bộ cho các nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc.

Trong khi đó, ở các vùng địch tạm chiếm, tổ chức cơ sở đảng tiếp tục duy trì hoạt động và giữ vững liên lạc với các khu ủy, trực tiếp lãnh đạo các lực lượng du kích đánh địch kháng chiến. Công tác phát triển đảng thời kỳ này đạt nhiều kết quả, nhiều quần chúng ưu tú được kết nạp vào Đảng từ phong trào thi đua giết giặc lập công, phong trào tăng gia sản xuất phục vụ kháng chiến.

Ngày 7/5/1954, sau 9 năm trường kỳ, vượt qua nhiều gian khổ, hy sinh, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã giành được thắng lợi với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, như nhà thơ Tố Hữu đã viết “Chín năm làm một Điện Biên - Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam tiếp tục viết nên trang sử vàng chói lọi. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là thắng lợi của đường lối kháng chiến trường kỳ, toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, tự lực cánh sinh kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ tận tình của bạn bè quốc tế.

Ngành Tổ chức xây dựng Đảng tự hào với những đóng góp của mình vào giai đoạn lịch sử đầy vinh quang này.

Ngay sau ngày Hiệp định Geneva (7/1954) được ký kết, đế quốc Mỹ đã trắng trợn can thiệp vào miền Nam, dựng lên chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm, thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới. Sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta tiếp tục phải trải qua chặng đường dài 21 năm với muôn vàn khó khăn, gian khổ và hy sinh. Cùng với các cấp, các ngành, công tác tổ chức xây dựng Đảng trong thời kỳ này tập trung cho hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Ở miền Bắc, ngành Tổ chức đóng vai trò nòng cốt trong tham mưu kiện toàn, thành lập mới các tổ chức, cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể ở Trung ương và địa phương; xây dựng các tổ chức đảng trong các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, nông trường, hợp tác xã, trường học, các bộ, các ngành…; triển khai công tác cán bộ, công tác xây dựng lực lượng vũ trang, phục vụ kế hoạch chi viện cho chiến trường miền Nam, sẵn sàng đối phó với các âm mưu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc của địch. Việc kiện toàn các chi đảng bộ cơ sở, phát triển đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên được tiến hành rất tích cực, động viên sức người, sức của cho chiến trường miền Nam.

Cùng với việc lựa chọn, bố trí những cán bộ xuất thân từ công nhân, nông dân và cán bộ miền Nam tập kết, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được triển khai một cách toàn diện, cơ bản. Đến đầu những năm 1960, thế hệ cán bộ đầu tiên được Đảng cử đi học tập, đào tạo ở trong và ngoài nước đã tốt nghiệp và được biên chế về các công trường, nhà máy, bệnh viện, nhà trường, các bộ, các ngành…

Cũng trong thời gian này, Trường đào tạo cán bộ của Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ngày nay) đã mở các lớp bồi dưỡng, đào tạo ngắn hạn, dài hạn đầu tiên về công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhà nước, tạo nguồn cán bộ chủ chốt và đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác đảng cho các bộ, ngành, địa phương.

Công tác cán bộ còn đảm nhiệm việc đào tạo cán bộ theo yêu cầu của cách mạng hai nước Lào, Campuchia anh em. Lúc này, việc chuẩn bị cán bộ chi viện cho chiến trường miền Nam cũng được tiến hành hết sức khẩn trương, hàng vạn cán bộ được đào tạo về chính trị, quân sự, an ninh, y tế và các ngành khác… đã lên đường vào Nam chiến đấu và phục vụ chiến đấu, giải phóng đất nước.

Ở miền Nam, những năm sau Hiệp định Geneva, công tác tổ chức xây dựng Đảng tập trung chủ yếu cho nhiệm vụ bảo vệ cơ sở đảng, đảng viên và quần chúng cách mạng. Đây là giai đoạn có nhiều khó khăn, là thời kỳ mà Đảng ta bị tổn thất lớn về tổ chức và con người trước sự khủng bố của chính quyền Ngô Đình Diệm. Nhiều địa bàn bị khủng bố trắng như Khu V, Thừa Thiên, Huế, Sài Gòn-Gia Định... Riêng Đảng bộ Khánh Hòa, từ năm 1954-1959 hơn 350 cán bộ, đảng viên đã bị địch sát hại, trong đó có 30 đồng chí là cấp ủy viên cấp huyện, cấp tỉnh - những cán bộ cốt cán, trung kiên đã được tôi luyện, trưởng thành trong đấu tranh gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp…

Để giữ vững địa bàn, bảo vệ tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, bảo vệ quần chúng cách mạng, ta buộc phải sử dụng các biện pháp quyết liệt, nhờ đó đến đầu những năm 1960, hệ thống tổ chức đảng cơ sở ở hầu hết các địa bàn đã được khôi phục, tiếp tục lãnh đạo các hoạt động du kích, vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh giải phóng miền Nam.

Được sự chi viện sức người, sức của từ miền Bắc, cách mạng miền Nam không ngừng lớn mạnh, liên tiếp giành thắng lợi, chủ động đánh địch mọi lúc, mọi nơi, khiến cho quân Mỹ và chư hầu phải bị động đối phó, ngụy quyền Sài Gòn hoang mang lo sợ.

Với hệ thống tổ chức đảng cơ sở rộng khắp, đội ngũ đảng viên và quần chúng cách mạng đông đảo, ta đã tổ chức đấu tranh làm thất bại thủ đoạn dồn dân lập ấp chiến lược của địch; làm thất bại các âm mưu và chiến lược chiến tranh của Mỹ; chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, khiến hệ thống chính quyền ngụy lung lay tận gốc rễ, buộc Mỹ phải từng bước rút quân và từ bỏ âm mưu xâm lược Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước là chiến thắng huy hoàng của cả dân tộc Việt Nam, là minh chứng khẳng định sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, ngành Tổ chức xây dựng Đảng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức dù ở hậu phương hay tiền tuyến, trong vùng địch hay vùng giải phóng, trong các nhà tù tàn bạo của Mỹ-ngụy luôn giữ vững khí tiết, niềm tin, trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân.

Hàng ngàn cán bộ làm công tác tổ chức cấp ủy, trong đó có nhiều đồng chí trực tiếp hoạt động ở các chiến trường ác liệt đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng. Tổ quốc và nhân dân sẽ mãi mãi không quên họ, đó là những tấm gương sáng để các thế hệ cán bộ ngành Tổ chức xây dựng Đảng học tập, rèn luyện noi theo.

Sau khi đất nước thống nhất, nhiệm vụ của ngành Tổ chức xây dựng Đảng hết sức nặng nề. Trong bối cảnh bị bao vây cấm vận, kinh tế đất nước gặp muôn vàn khó khăn, công tác tổ chức, cán bộ từ Trung ương tới cơ sở phải đối mặt với nhiều thách thức. Trước tình hình đó, Trung ương đã chỉ đạo gấp rút lựa chọn, điều động một số lượng lớn cán bộ từ miền Bắc vào công tác ở miền Nam; đồng thời phải triển khai thực hiện các nhiệm vụ trong nhiệm kỳ Đại hội IV, V của Đảng, trong đó có nhiều công việc mới, khó, chưa từng làm.

Cũng trong thời gian này, ngành Tổ chức xây dựng Đảng đã tham mưu, lựa chọn nhiều cán bộ sang giúp nước bạn Căm pu chia xây dựng chính quyền các cấp sau khi lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot.

Với khối lượng công tác lớn, mới và có nhiều khó khăn, phức tạp, nhất là việc chuyển đổi cơ cấu tổ chức, cán bộ từ mô hình thời chiến sang thời bình nên công tác tổ chức của Đảng cũng không tránh khỏi những sai sót, khuyết điểm. Vấn đề này đã được Đảng ta chỉ ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1982): “Những ưu điểm và khuyết điểm trong sự lãnh đạo chính trị của Đảng gắn liền với những ưu điểm và khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác tổ chức cũng trì trệ, chậm chuyển hướng, không theo kịp tình hình và nhiệm vụ."

Ngay sau Đại hội V, toàn ngành đã tập trung quán triệt nhiệm vụ, xác định rõ nguyên nhân của những tồn tại, khuyết điểm và nỗ lực triển khai các giải pháp khắc phục. Đã nhanh chóng kiện toàn cơ quan tham mưu tổ chức cấp ủy các cấp; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ; kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức, cán bộ; gắn công tác xây dựng Đảng với xây dựng các cơ quan chính quyền và đoàn thể. Những kết quả đạt được về công tác tổ chức xây dựng Đảng thời gian này tuy chưa nhiều, nhưng cơ bản đã khắc phục được những sai sót, khuyết điểm, từng bước đổi mới tư duy, nhận thức, tạo cơ sở lý luận, thực tiễn cho việc xây dựng văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986).

Với tinh thần đổi mới, Đại hội VI đã thẳng thắn chỉ ra các hạn chế, khuyết điểm mà nguyên nhân quan trọng nhất là công tác tổ chức, cán bộ và rút ra những bài học kinh nghiệm lớn về công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng độ ngũ cán bộ giai đoạn 1976-1986; đồng thời xác định rõ quyết tâm của toàn Đảng là “Xây dựng Đảng thật sự ngang tầm một đảng cầm quyền có trọng trách lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhân tố quyết định sự phát triển của cách mạng nước ta."

Quán triệt sâu sắc đường lối đổi mới của Đảng, liên tục trong các nhiệm kỳ từ sau Đại hội VI, cùng với triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ được giao, toàn ngành đã tập trung nghiên cứu, đánh giá tình hình, tổng kết thực tiễn, tham mưu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp nhiều chủ trương, giải pháp, thiết thực, hiệu quả như nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên; kiện toàn, sắp xếp tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị; đổi mới công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; xây dựng và triển khai các giải pháp nhằm phát huy vai trò tham mưu của cơ quan tổ chức cấp ủy; tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ; đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát; triển khai việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trong và ngoài nước…

Từ thực tiễn của công tác xây dựng Đảng và trên cơ sở rút kinh nghiệm việc triển khai Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về xây dựng Đảng, ngành Tổ chức đã tham mưu Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” với 3 vấn đề trọng tâm. Lần đầu tiên triển khai xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ cấp chiến lược; ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng để tiếp tục cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong ứng cử, đề cử, bầu cử trong Đảng… Những nỗ lực đổi mới của ngành đã tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác tổ chức xây dựng đảng trên cả nước.

Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ 30 năm đổi mới (1986-2016) là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta... Đổi mới là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Tuy nhiên, đổi mới chính trị còn chậm, chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, chức năng, nhiệm vụ chồng chéo, biên chế ngày càng tăng, nhưng hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao, chưa ngang tầm nhiệm vụ. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống vẫn đang tồn tại trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn diễn ra nghiêm trọng, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Công tác cán bộ còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước. Từ thực tiễn đó, Đại hội XII của Đảng đã xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm, trong đó có 2 nhiệm vụ về công tác xây dựng Đảng.

Từ năm 2016 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả của các cơ quan chức năng thuộc Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, ngành Tổ chức xây dựng Đảng đã tập trung nghiên cứu, tham mưu ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 26-NQ/TW, Quy định số 08-QĐ/TW và nhiều chỉ thị, kết luận, quy chế quan trọng khác để triển khai thực hiện 2 nhiệm vụ trọng tâm về công tác xây dựng Đảng.

Công tác tổ chức xây dựng Đảng được triển khai thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ trên cả ba trụ cột: (1) Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ nền tảng, cơ sở và tiến hành thường xuyên, liên tục; (2) Xây dựng bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là nhiệm vụ trung tâm, mang tính động lực; (3) Xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ là căn cơ, then chốt của then chốt, nhất là người đứng đầu.

Với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt của cả hệ thống chính trị, việc cụ thể hóa và triển khai đồng bộ 3 vấn đề trọng tâm, cấp bách trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và 2 nhiệm vụ trọng tâm được xác định tại Đại hội XII về xây dựng Đảng mang lại kết quả tương đối toàn diện. Đã góp phần đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến," “tự chuyển hóa."

Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được đổi mới, sắp xếp tinh gọn hơn; tinh giản biên chế đạt kết quả rõ nét, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Công tác cán bộ tiếp tục được đổi mới, ngày càng đi vào nền nếp, chất lượng đội ngũ cán bộ được nâng lên; tăng cường phân cấp, phân quyền; đề cao thẩm quyền, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu; tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình hiện nay..., góp phần ngăn chặn chạy chức, chạy quyền. Những kết quả nêu trên đã góp phần quan trọng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng ta đoàn kết hơn, trong sạch và vững mạnh hơn, lòng tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố và tăng cường hơn.

Các đại biểu tham dự lễ kỷ niệm. (Nguồn: Xaydungdang.org.vn)

Từ khi thành lập đến nay, ngành Tổ chức xây dựng Đảng luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp. Hệ thống các cơ quan tham mưu tổ chức cấp ủy được củng cố; đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức của Đảng không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhiều cán bộ của ngành đã trở thành những cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Để ghi nhận những cống hiến to lớn của ngành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, của dân tộc, Đảng và Nhà nước đã trao tặng ngành Tổ chức xây dựng Đảng Huân chương Sao Vàng; nhiều tập thể, cá nhân được trao tăng nhiều danh hiệu cao quý khác.
Những nỗ lực phấn đấu của ngành trong 90 năm qua đã đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc, góp phần để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Qua 90 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành, ngành Tổ chức xây dựng Đảng rút ra 3 bài học kinh nghiệm lớn, đó là:

Thứ nhất trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải bám sát sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng; tiền phong, gương mẫu, trung thành tuyệt đối, chấp hành nghiêm sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao.

Thứ hai, luôn bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn và coi trọng tổng kết thực tiễn, nắm chắc tình hình để làm tốt công tác tham mưu; triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng, của các cấp ủy, tổ chức đảng; tập trung xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Thứ ba, kiên định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, phát huy dân chủ, giữ gìn đoàn kết nội bộ, thường xuyên đổi mới tư duy, nội dung, phương pháp làm việc, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tham mưu của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội để triển khai hiệu quả công tác tổ chức xây dựng đảng.

Trong những năm tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác tổ chức xây dựng Đảng nói riêng có nhiều thuận lợi nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Kiên định Chủ nghĩa Marx-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc các chủ trương, quan điểm của Đảng và nhiệm vụ xây dựng Đảng trong tình hình mới, với tinh thần đổi mới, sáng tạo, ngành Tổ chức xây dựng Đảng xác định 3 nhiệm vụ trọng tâm sau:

Thứ nhất tiếp tục quán triệt các Nghị quyết của Đảng, nhất là các nội dung, nhiệm vụ xây dựng Đảng được xác định trong Nghị quyết Đại hội XIII, bám sát thực tiễn, chủ động, kịp thời tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp các chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.

Thứ hai, tập trung xây dựng ngành, xây dựng hệ thống cơ quan tổ chức cấp ủy các cấp vững mạnh toàn diện, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu ngành Tổ chức xây dựng Đảng các cấp “Đoàn kết-Trung thành-Trung thực-Gương mẫu-Trong sáng-Tinh thông-Chuyên nghiệp."

Thứ ba tăng cường công tác phối hợp với các bộ, ban, ngành, địa phương, với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội nhằm triển khai đồng bộ, hiệu quả công tác tổ chức xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh đáp ứng yêu cầu của tình hình cách mạng mới.

Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập ngành Tổ chức xây dựng Đảng, mỗi chúng ta đều thấy tự hào khi ôn lại truyền thống, thấm nhuần sâu sắc hơn ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm trong công tác tổ chức xây dựng Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên của ngành đều thấy được trách nhiệm không ngừng phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với các thế hệ đi trước, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Nhân dịp kỷ niệm 90 năm Ngày truyền thống của ngành Tổ chức xây dựng Đảng, thay mặt tập thể lãnh đạo cùng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Tổ chức xây dựng Đảng, tôi phát động đợt thi đua lập thành tích chào mừng thành công đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục