Suốt chặng đường 75 năm xây dựng đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần không nhỏ để duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm của nền kinh tế.
Không dừng lại ở đó, hội nhập kinh tế quốc tế còn được ví như sức mạnh tổng hợp của quốc gia giúp nâng cao sức cạnh tranh và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Khẳng định vị thế
Kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 năm 1945 đến nay, hội nhập quốc tế đã trở thành xu thế chung. Chính vì vậy, ngay sau khi giành được độc lập thống nhất đất nước, Việt Nam đã tập trung mở rộng quan hệ hội nhập quốc tế, nhất là từ sau giai đoạn đổi mới 1986 đến nay.
Nếu như giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, đến năm 2019 con số này đã đạt 7,02%, quy mô nền kinh tế đạt hơn 262 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người đã lên gần 2.800 USD.
Đáng lưu ý, danh sách do Forbes Asia 2019 công bố, trong 200 công ty có doanh thu trên 1 tỷ USD tốt nhất tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã có tới 7 doanh nghiệp của Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam còn xếp thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư năm 2019, tăng 15 bậc so với năm 2018.
Đặc biệt, hội nhập kinh tế cũng đưa Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng lưới liên kết kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu thế giới.
Thống kê từ Bộ Công Thương cho thấy tính đến năm 2019, Việt Nam đã có quan hệ chính thức với 189/193 quốc gia của Liên hợp quốc; có quan hệ kinh tế-thương mại và đầu tư với trên 224 nước và vùng lãnh thổ; có 16 đối tác chiến lược, 11 đối tác chiến lược toàn diện; 71 nước đã công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường.
Theo các chuyên gia thương mại, điểm sáng của thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế là thúc đẩy ký kết, phê chuẩn và triển khai hiệu quả Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA), phát huy vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 thúc đẩy triển khai Cộng đồng kinh tế ASEAN và liên kết kinh tế giữa ASEAN với các đối tác.
Cùng với đó, Việt Nam chủ động tham gia, đóng góp tích cực tại các cơ chế đa phương như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị Thượng đỉnh Á-Âu (ASEM), hợp tác tiểu vùng Mekong…
Với 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) đang thực thi và đàm phán, Việt Nam trở thành tâm điểm của mạng lưới khu vực thương mại tự do rộng lớn, chiếm 59% dân số thế giới và 68% thương mại toàn cầu, góp phần gia tăng đan xen lợi ích của Việt Nam với hầu hết các đối tác hàng đầu khu vực và thế giới.
[Thành tựu 75 năm phát triển kinh tế: Chọn lọc dòng vốn FDI mới]
Chia sẻ về một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh khẳng định: Hoàn thiện thể chế thị trường qua việc chủ động hội nhập kinh tế và thể chế hóa cam kết hội nhập nhằm phục vụ môi trường đầu tư kinh doanh để giải phóng các nguồn lực, đóng góp vào tăng trưởng chung của kinh tế-xã hội.
Nổi bật nhất là việc chủ động đàm phán các FTA đa và song phương, nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam, đa dạng hóa nguồn cung nguyên, vật liệu phục vụ sản xuất trong nước, xây dựng và bảo vệ thương hiệu quốc gia, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà sản xuất và người tiêu dùng trong nước.
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho hay năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN, đánh dấu bước chính thức mở cửa hội nhập và bắt đầu tham gia các FTA một cách bị động nhưng sau đó Việt Nam đã bắt đầu chủ động hơn trong việc lựa chọn đối tác tham gia và vươn ra các thị trường xa hơn.
Đáng lưu ý, Hiệp định CPTPP và EVFTA được ký kết gần đây là hai dấu ấn quan trọng để Việt Nam hoàn thiện thể chế và mở rộng thị trường xuất khẩu
Hơn nữa, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới chuyển sang thời kỳ kỷ nguyên số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Bộ Công Thương xác định chủ động nhận diện các động thái, xu hướng phát triển lớn của thế giới nhằm tận dụng triệt để những cơ hội mới.
Đồng thời, việc tham gia thiết lập một nền kinh tế thị trường đầy đủ, minh bạch và hiện đại, đáp ứng yêu cầu của hội nhập; xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi, phát huy hơn nữa vai trò của địa phương, doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Tận dụng thời cơ
Chia sẻ về tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, ông Trịnh Minh Anh, Chánh văn phòng Ban chỉ đạo Liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế thuộc Bộ Công Thương, nhấn mạnh kể từ khi Việt Nam tham gia WTO đến nay, GDP của Việt Nam đã tăng hơn 300%, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 350%, độ mở của nền kinh tế liên tục tăng, năm ngoái tăng trên 200%.
Do đó, hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là chuyển đổi cơ cấu kinh tế phù hợp với tình hình quốc tế, phù hợp với các định chế kinh tế thương mại song phương và đa phương; cùng nhau tuân thủ các cam kết để giải quyết vấn đề thị trường, hàng hóa và dịch vụ, làm cho các thị trường hoạt động có trật tự, giúp giảm thiểu các hành động “bóp méo” thương mại, hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định và bền vững.
Ngoài ra, các FTA thế hệ mới giúp cho Việt Nam hội nhập sâu hơn, giảm thuế nhanh hơn; góp phần xoay trục thị trường, giúp chuyển hướng, đa dạng hóa các mối quan hệ thương mại, mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng.
Đại diện Vụ Chính sách Thương mại Đa biên thuộc Bộ Công Thương cho rằng thời gian tới, khi các cam kết FTA bước vào giai đoạn cắt giảm thuế sâu, đặc biệt các FTA với Hoa Kỳ, EU có hiệu lực sẽ thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn, đem đến nhiều cơ hội mở rộng thị trường cho hàng hóa của Việt Nam.
Đồng thời, giúp đa dạng hóa thị trường nhập khẩu, tránh phụ thuộc vào các thị trường nguyên liệu truyền thống.
Hiện nay, phạm vi đối tác FTA của Việt Nam đã khá rộng và toàn diện. Vì vậy, trong từ 3-5 năm tới sẽ chạm đến các dấu mốc quan trọng của nhiều Hiệp định và dần tiến đến tự do hóa thuế quan hầu hết các mặt hàng nhập khẩu với các đối tác thương mại chính.
Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, nhất là chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hóa xuất khẩu phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, theo đó tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ cũng như giá trị gia tăng cao hơn.
Tuy nhiên, với 96% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ nên áp lực cạnh tranh đối với nền kinh tế Việt Nam là rất lớn. Bởi, dù hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, song việc có tận dụng được các ưu đãi về thuế quan để mở rộng thị trường hay không lại phụ thuộc vào việc đáp ứng các yêu cầu về quy tắc xuất xứ cũng như các yêu cầu khác về an toàn thực phẩm, vệ sinh dịch tễ...
Do đó, với năng lực tự sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu còn hạn chế, những yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hóa lại đang đặt ra thách thức và mối lo ngại cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Không những thế, việc tự do hóa thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng nguồn hàng nhập khẩu từ các nước vào Việt Nam do giá thành rẻ, chất lượng và mẫu mã đa dạng, phong phú hơn sẽ tác động đến lĩnh vực sản xuất trong nước.
Ngoài ra, khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật không hiệu quả, Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng kém, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng trong khi lại không bảo vệ được sản xuất trong nước.
Đặc biệt, sản phẩm nông nghiệp và các doanh nghiệp, nông dân Việt Nam đứng trước sự cạnh tranh gay gắt, trong khi đó hàng hóa nông sản và nông dân là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong hội nhập.
Để tối ưu hóa những tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế đến nền kinh tế, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh khẳng định Bộ Công Thương sẽ đặt trọng tâm hàng đầu vào việc thực thi và tận dụng hiệu quả các cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do, nhất là Hiệp định CPTPP, EVFTA, Hiệp định của ASEAN với các đối tác.
Mặt khác, Bộ sẽ hỗ trợ doanh nghiệp trong phòng vệ thương mại; chủ động xây dựng các phương án phù hợp thúc đẩy các FTA đang đàm phán, đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường.
Ngược lại, phía doanh nghiệp cũng cần chủ động đầu tư và đổi mới trang thiết bị công nghệ theo chiều sâu; đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tạo sự liên kết để xây dựng chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy xuất khẩu./.